chí được bổ nhiệm làm tư lệnh một cụm kỵ binh, sau này được tổ chức lại
thành tập đoàn quân 26. Cô-xten-cô là một cán bộ chấp hành mệnh lệnh rất
nghiêm túc và không ưa bàn cãi khi đã có lệnh. Đồng chí được đánh giá
cao vì tinh thần cương quyết và tính chính xác khi thực hiện quyết định của
bộ tư lệnh.
Ủy viên Hội đòng quân sự tập đoàn quân là chính ủy lữ đoàn Đ. E. Cô-
lê-xni-cốp; tham mưu trưởng là đại tá L. X. Va-ren-ni-cốp.
Các đơn vị của tập đoàn quân 12 đóng ở sườn cực Nam, kéo dài gần một
nghìn năm trăm ki-lô-mét, từ thành phố Tséc-nô-vi-txư (nay là Tsécnốp-
txư) tới cửa sông Đa-xtơ-rơ. Ở đây có sáu sư đoàn bộ binh và hai sư đoàn
không quân, quân đoàn cơ giới 16 và năm tiểu đoàn pháo cao xạ. Lữ đoàn
phòng không 11 bảo vệ Đrô-gô-bư-tsơ. Các đội thuộc đoàn biên phòng 94,
95, 96 và 97 làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới.
Chỉ huy tập đoàn quân 12 là thiếu tướng P. G. Pô-nê-đê-lin, có lẽ là
người có học lực cao hơn cả trong số tư lệnh tập đoàn quân của chúng tôi.
Trước kia, đồng chí đã chỉ huy sư đoàn bộ binh, lãnh đạo bộ tham mưu
quân khu Lê-ni-grát, chủ nhiệm bộ môn chiến thuật Học viện quân sự mang
tên M. V. Phrun-dê. Là người am hiểu về chiến thuật các binh đoàn lớn,
giỏi phân tích các vấn đề nghệ thuật quân sự, đồng chí rất có uy tín trong
quân khu chúng tôi.
Ủy viên Hội đồng quân sự tập đoàn quân là chính ủy lữ đoàn I. P. Cu-li-
cốp; tham mưu trưởng là thiếu tướng B. I. A-ru-sa-ni-an.
Trong thời bình thì biên giới như vậy là đã được bảo vệ vững chắc.
Nhưng đảng và chính phủ vẫn lo ngại trước những sự kiện ở phương Tây
nên rất quan tâm đến việc tiếp tục tăng cường cho các quân khu sát biên
giới. Ngày 26 tháng Tư, chúng tôi nhận được mệnh lệnh trong vòng một
tháng phải thành lập xong năm lữ đoàn pháo chống tăng cơ động. Sau này,
các lữ đoàn đó đã giữ vai trò khá quan trọng trong các trận đánh với các sư
đoàn xe tăng phát-xít, mặc dầu lúc bắt đầu chiến tranh, các lữ đoàn ấy vẫn
chưa được trang bị đầy đủ về phương tiện vận tải. Chỉ huy các binh đoàn