hơn một triệu.
Về tổ chức, quân đội Việt nam, được tự gọi là Quân đội nhân dân Việt nam,
gồm có ba binh chủng lục quân, hải quân và không quân. Lãnh thổ được
chia làm các quân khu I, II, III, IV, V, VII, IX quân khu Thủ Đô, đặc khu
Quảng Ninh và đặc khu thành phố Hồ Chí Minh. Lục quân gồm có chính
quy, chủ lực quân khu và dân quân địa phương. Lực lượng chính quy, trực
thuộc Bộ tổng tham mưu, sau 1975 được tổ chức thành bốn quân đoàn cơ
động, sử dụng như những lực lượng tổng trừ bị. Bốn quân đoàn 1, 2, 3, 4
này, còn được gọi là những binh đoàn Quyết Thắng, Hương Giang, Tây
Nguyên và Cửu Long. Sau 1979, số quân đoàn này được tăng lên thành sáu
rồi tám. Mỗi quân đoàn có từ ba mươi ngàn đến bốn mươi ngàn quân, gồm
có ba hay bốn sư đoàn bộ binh, cùng những đơn vị yểm trợ như pháo binh,
thiết giáp, truyền tin, quân y... Ngoài những vũ khí mà quân đội Việt nam
cộng hoà để lại, bộ đội Việt nam có khoảng hơn một ngàn xe tăng T34,
T54, T55, T59, T62, năm trăm xe PTP76, khoảng sáu trăm súng đại bác, ba
ngàn súng phòng không và các đơn vị tên lửa SAM. Chủ lực miền là những
đơn vị cơ hữu của mỗi quân khu. Ngoài những sư đoàn chủ lực quân khu,
mỗi tỉnh còn có một hay hai trung đoàn chủ lực tỉnh như những trung đoàn
Vàm Cỏ, Sông Bé, Gia định, Bắc Thái... Lực lượng dân quân là những tỉnh
đội, huyện đội, xã đội, có nhiệm vụ phòng thủ và trinh sát nhiều hơn. Ngoài
ra, bộ binh Việt nam còn có những đơn vị đặc biệt như lực lượng đặc công,
lữ đoàn 305 dù, quân đoàn 559 Công binh, sư đoàn 673 cao xạ, các đoàn
vận tải v.v...
Hải quân của quân đội Việt nam bắt đầu được thành lập từ những năm
1960, mới đầu là hai mươi lăm pháo thuyền của Trung hoa và ba mươi tàu
tuần duyên do Liên xô viện trợ. Sau 1975, cùng với những thuyền bè do hải
quân Việt nam cộng hoà để lại, hải quân Việt nam đã có hơn một ngàn tàu
chiến lớn nhỏ. Vùng trách nhiệm duyên hải được chia làm năm vùng mà
các Bộ tư lệnh đóng ở Hải Phòng, Vinh, Đà Nẵng, Vũng Tàu và Rạch Giá.
Có hai hạm đội, hạm đội Hàm Tử phụ trách vùng biển phía bắc, hạm đội
Bạch Đằng phụ trách vùng biển phía Nam của Đông Hải và vịnh Thái lan.
Tư lệnh hải quân lúc đó là Hoàng Hữu Thái. Chính uỷ là Hoàng Trà. Họ