Tôi phải thú nhận rằng tâm trạng căng thẳng và hiểm họa lúc ấy đã
mãi mãi để lại cảm giác hoài nghi và bất an trong tâm trí tôi. Tôi ngồi viết
dưới ánh đèn trong phòng làm việc của mình, và thình lình tôi lại thấy
thung lũng đang hồi phục bên dưới bỗng bốc cháy dữ dội, và cảm thấy nhà
cửa phía sau và chung quanh mình trống trải hoang vắng. Tôi bước ra phố
Byfleet, xe cộ chạy ngang, một anh hàng thịt trên chiếc xe ngựa, một chiếc
xe chở thuê đầy khách, một công nhân đi xe đạp, trẻ con đến trường, và
thình lình họ trở nên mơ hồ và hư ảo, và tôi lại cùng người lính pháo binh
hối hả ra đi trong tĩnh mịch ủ ê, nóng bức. Một đêm tôi thấy bụi đen làm tối
sẫm các con đường yên tĩnh, và những thân hình vặn vẹo bị phủ dưới lớp
bụi ấy; tả tơi và bị chó cắn, chúng đứng lừng lững trên tôi. Chúng lắp bắp,
càng lúc càng hung dữ hơn, xanh xao hơn, xấu xí hơn, cuối cùng thành
những hình người méo mó điên dại. Tôi tỉnh dậy, lạnh toát và khốn khổ
trong bóng đêm.
Tôi đi Luân Đôn, thấy những đám đông hối hả trên phố Fleet và phố
Strand, và chợt nghĩ rằng họ chỉ là những hồn ma của quá khứ về thăm phố
phường, rằng tôi đã thấy các bóng ma lặng lẽ khốn khổ ngược xuôi trong
một thành phố chết, bản sao vờ vĩnh của sự sống trong một cái xác bị giật
điện.
Và cũng lạ lùng rằng chỉ mới một ngày trước khi viết chương cuối
này, tôi đứng trên Đồi Primrose nhìn những vạt nhà cửa mênh mông, xanh
mờ qua sương khói, cuối cùng tan biến vào bầu trời thấp nhạt nhòa, nhìn
người đi lại ngược xuôi giữa các luống hoa trên đồi, nhìn người ngoạn cảnh
chung quanh cỗ máy Hỏa tinh còn đứng yên nơi đó, nghe tiếng trẻ chơi đùa
rối rít, và nhớ lại lúc tôi thấy hắn sáng ngời và rõ ràng, cứng cáp và lặng
thinh, dưới ánh bình minh của ngày cuối cùng vĩ đại ấy…
Và lạ nhất là cầm lại tay vợ mình, nghĩ đến chuyện mình đã tưởng
nàng, và nàng đã tưởng tôi, thuộc về cõi chết.