Sài Gòn ít khi thấy được ánh hỏa châu
Nên đêm đêm Sài Gòn bình yên giấc ngủ
Ðể em đến trường như con sáo nhỏ
Ðể người lính trở về, có chỗ dừng chân
Ðể mãi mãi Sài-Gòn là những bâng khuâng...”
Sài-Gòn những ngày tôi có mặt giống như câu thơ Trần Hoài-Thư đã mô tả.
Ðọc sách anh, nhìn lại mình, tôi thấy tôi trước nhứt là như thế. Phải nhận ra
cái kém cỏi của mình để học cái gan dạ của những người lính trên Ban-Mê-
Thuột, trên đường liên tỉnh lộ số 7 từ Pleiku dẫn về Cũng-Sơn, Sơn-
Hòa,Tuy-Hòa, Phú-Yên miền duyên hải và những người lính trong “tháng
ba gãy súng” chứ? Phải không anh???
Cuốn sách của anh là một bài học cho tôi rất nhiều. Tôi đã học được ở đó
nhiều điều mà tôi mãi băn khoăn, từ cái nhỏ đến cái lớn, từ cá nhân bé nhỏ
đến tập thể rộng lớn bên ngoài, từ trong đời sống thường của một thường
dân đến lãnh vực bao quát một thời kỳ qua bài học lịch sử trước đó và sau
này... Và tôi có thể nói rõ lại một điều là tôi rất sợ cuốn sách ấy khi tôi ngồi
một mình giữa đêm thâu mở lại từng trang sách. Bởi một lẽ giản dị là, mỗi
lần lật lại từng trang giấy in đầy những dòng chữ như một hồi ức ấy của tác
giả, cũng chính là một loại bùa lỗ ban, là một cái kính chiếu yêu, nó làm
những bóng ma trong tôi phải chùng lại mọi cựa quậy, mọi xưng tụng.
Những bóng ma của thời trẻ trong tôi, cũng như khi bây giờ vào buổi xế
chiều này, khi chạm phải những trang sách của Cao Xuân-Huy là tôi biết ớn
lạnh, rùng mình! Và tôi đọc sách của anh với trạng thái của một người
ngoài màu áo lính mà anh và các bạn cùng đơn vị đã khoác nó lên mình,
của một người vô danh tiểu tốt sống lủi thủi ở một vùng quê mùa xa lắc xa
lơ, một người nhà quê có một làng mạc chìm trong chiến tranh mấy mươi
năm qua nhiều thời kỳ bồng chống nhau tản cư chạy loạn và cũng như
nhiều bà con làng quê, tôi biết sợ chiến tranh, cho dù chiến tranh đến dưới
bất cứ danh nghĩa nào, từ bất cứ phía nào, vào bất cứ thời nào, và bất cứ đời
nào!!!
Tôi hy vọng, với thời gian năm, ba trăm năm sau hay một, hai ngàn năm