quân thiết kỵ bảo vệ Thoát Hoan chạy được về thị trấn Tư Minh bên Trung
Quốc (cách Lạng Sơn chừng hai mươi dặm). Thế là ba chục vạn quân
Nguyên Mông tinh nhuệ đã bị Đại Việt tiêu diệt vào cuối mùa xuân 1288
Mùa hạ, tháng Tư, bàn xét công dẹp giặc Nguyên, hai vua Trần đã tiến
phong Hưng Đạo vương làm Đại vương (tức Hưng Đạo Đại vương) Hưng
Vũ vương được phong Khai quốc công. Hưng Nhượng vương làm Tiết độ
sứ. Những người có công được ban quốc tính, trong đó có Đỗ Khắc Chung
được trở thành Trần Khắc Chung lại cho làm Đại hành khiển. Đỗ Hành chỉ
được phong quan nội hầu (lẽ ra là Liệt hầu tước hầu cao nhất) vì khi bắt
được Ô Mã Nhi không dâng lên vua mà lại dâng lên thượng hoàng, như vậy
là báo công vượt cấp. Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện không được thăng
trật, vì đã có chiếu cho người Nguyên về nước, các tướng không được cản
trở mà lại đón đánh và bắt giữ. Cho Man trưởng ở Lạng Giang là Lương
Uất làm trại chủ Quy Hóa. Hà Tất Năng làm quan Phục tuần vì có công
đem người Man ra đánh giặc.
Gia phong cho Nguyễn Khoái làm Liệt hầu, vì không nhận đất ở kinh đô,
cho một quận làm ấp thang mộc gọi là Khoái Lộ (nay là huyện Khoái Châu,
Hưng Yên). Truy phong cho Trần Quốc Toản từ tước hầu lên tước vương.
Phạm Ngũ Lão được giao cho cai quản quân Thánh dực với chức Hữu
Kim Ngô Đại tướng quân tước quan nội hầu. Đến thời vua Anh Tông.
Phạm Ngũ Lão được phong đến chức Điện súy Thượng tướng quân.
Trần Khánh Dư được trả lại chức Phiêu kỵ tướng quân. Chức chỉ được
phong cho hoàng tử.
Về phạt bọn tướng làm phản như Trần Kiện, Trần Lộng đã chết hoặc trốn
sang Tầu không được mang họ Trần mà đổi thành họ Mai. Riêng Trần Ích
Tắc được gọi là Á Trần, có ý khinh bỉ coi như đàn bà…
Ngày khải hoàn vua Trần Nhân Tông có hai câu thơ vừa như tổng kết
cuộc kháng chiến, vừa như di chúc cho hậu thế về trách nhiệm giữ nước:
Đất nước hai phen bon ngựa đá,