16
Ở trên đời thực quả có quá nhiều bất công, người tử tế, dù có may mắn
thành đạt vẫn không tránh khỏi những nỗi niềm những bi kịch đau xót.
Sau chiến tranh một số cung điện, đền đài, dinh thự… của vua quan và
các vương tôn công tử bị phá hoại hoàn toàn hoặc một phần. Việc xây
dựng, sửa sang lại tốn rất nhiều sức dân. Nhân nạn đói 1290 - 1291, một số
quan lại quý tộc như “bắt được vàng” với việc mua một “nhân mạng” chỉ
mất có một đồng bạc. Do vậy có người một lúc đã mua được cả ngàn
người, vừa bóc lột được sức lao động, vừa tăng đáng kể đội quân “gia binh”
của mình. Riêng Trần Khánh Dư vốn có tiềm lực từ khi còn ở Vân Đồn thì
làm bằng “cả hai tay”. Một tay tăng cường đội gia binh lên tới bốn ngàn
người đông vào loại bậc nhất các vương thời bấy giờ. Tay thứ hai là tích tụ
ruộng đất. Biết vùng nào đói to, Khánh Dư móc nối với các quan lại địa
phương nhờ họ làm “cai thầu” mua “cả lố” liền bờ, liền thửa cả trăm mẫu
một. Ruộng của Nhân Huệ vương thẳng cánh cò bay, có tới cả ba ngàn
mẫu, hơn cả Hưng Đạo vương khi xưa chỉ có hai ngàn.
Số ruộng đất tích tụ được Trần Khánh Dư dùng vào việc canh tác một
phần. Một phần lớn cải tạo thành các sân đua ngựa, như sân đua ở Thượng
Hồng. Theo tính toán khá nhạy bén của Vương thì Thượng Hồng tưởng xa
mà lại hóa gần. Chỉ cần qua đò Sông Cái, đi ngựa một thôi đường ngắn là
tới nơi. Cái lợi của việc đua ngựa không chỉ nằm ở việc “bán vé” mà nguồn
chính là các tổ chức “cá độ” cho các vương giả, cùng các con cháu “lắm
của nhiều tiền” lại sẵn máu me ăn thua cờ bạc. Tuy nhiên công trình này
của Nhân Huệ vương mất tới sáu bảy năm vẫn không thực hiện được vì
vướng một số thửa ruộng nằm trong diện “xôi đỗ” mà chủ nhân của nó là
những phú hộ có máu mặt ở địa phương, lại đã từng có đóng góp “sức của”
vào ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông nên các quan từ cấp phủ,
cấp huyện đến cấp hương cũng phải kiềng…