- Lệnh của vua đâu? - Dân hỏi lại.
- Ta là vương, ta là được thay mặt vua rồi, việc gì phải hỏi nữa.
Một số hộ dân quá uất ức, bị tước mất miếng cơm, manh áo, đẩy gia đình
họ vào chỗ bần cùng đã vũ trang chống lại. Nhân Huệ vương cho gia binh
đến đàn áp, nhưng ra lệnh “chỉ được đánh què, chứ không đánh chết”. Rồi
dỡ nhà cửa, phá vườn tược của họ ở trên bờ, đuổi đi chỗ khác, đưa gia nhân
của mình đến canh tác. Tiếng kêu dậy đất, đơn gửi đến quan huyện, quan
phủ đều không có hồi âm vì phần sợ uy thế của vương, phần khác, mỗi
vuông “giải tỏa” được, các quan đều được chia một đồng bạc. Dân tụ họp
vài trăm người kéo lên kinh thành. Vua sai Trần Khắc Chung ra nhận đơn
khiếu kiện. Sau vài ngày “thụ lí” Chung vào tâu với vua:
- Việc làm ăn chỉ có thỏa thuận miệng. Không có khế ước nên không biết
“Ai đúng, ai sai. Ai phải, ai trái” thì làm sao khu xử được.
Vua sai Trần Thì Kiến, một môn hạ của Hưng Đạo Đại vương, lúc đó
mới được bổ làm quan Kiểm pháp, nhậm chức Đại an phủ kinh sư. Thì
Kiến tính người cương trực. Khi được Hưng Đạo vương tiến cử làm An
phủ sứ Thiên Trường. Có người đem biếu mâm cỗ. Thì Kiến hỏi vì cớ gì
mà biếu, người ấy nói:
- Vì ở gần trụ sở cho nên đem biếu. Chứ không có kêu xin gì cả.
Mấy ngày sau thì đến kêu xin việc tranh tụng ruộng đất. Thì Kiến móc
họng mửa ra, rồi sai lính đuổi về. Rồi được thăng làm quan Kiểm pháp.
Mỗi khi có việc kiện, lấy lý mà bẻ, việc đến thì dùng phép đối phó. Mọi
người đều coi là người giỏi xử đoán kiện tụng.
Trần Thì Kiến nhận đơn của dân ở các phủ Lý Nhân, Trường Yên và Ý
Yên. Thân đến tận nơi xem xét cặn kẽ sự việc. Không chỉ đi một lần, mà đi
tới ba, bốn lần. Sau khi nắm rõ vụ việc, Trần Thì Kiến thấy dân kiện là
đúng nên khi khai triều, đem sự việc tâu lên vua. Lúc đó Khánh Dư mới ở
bãi Tám (có lẽ là vùng ven biển Hải Phòng bây giờ) về kinh thành. Vua hỏi
Khánh Dư: “Vì sao lại có chuyện tiền hậu bất nhất như thế, để dân kiện là
đúng hay sai?”.