lúc đông như thế. Các nhóm người nhập cư không đông lắm, lại được phân
ra trên những khu vực rộng lớn, đã nhanh chóng hòa nhập vào môi trường
sống của người dân Mĩ. Người nhập cư mới tới khi những người nhập cư
trước đã bị đồng hóa được một nửa rồi. Một trọng những lí do căn bản của
việc đồng hóa là không có quá đông người nhập cư từ các nước khác.
Người ta tin rằng hiện nay tình hình đã khác, và có nguy cơ là uy thế - hay
nói đúng hơn là thế thượng phong - của những người Anglo-Saxon ở Mĩ sẽ
không còn. Đặc biệt đáng sợ nếu đấy lại là làn sóng di dân của những người
gốc Mông Cổ ở châu Á.
Có vẻ như đối với Mĩ, nỗi sợ hãi đã bị thổi phồng một cách quá đáng.
Còn đối với Australia thì không. Australia chỉ có số dân tương đương số
dân Áo mà thôi, nhưng nguồn tài nguyên thiên nhiên thì giàu có hơn rất
nhiều. Nếu Australia mà để ngỏ cho người nhập cư thì chỉ sau vài năm dân
cư sẽ bao gồm chủ yếu là người Nhật, người Trung Quốc và người Mã Lai.
Rõ ràng là nhiều người hiện nay có thái độ ác cảm đối với dân ngoại
quốc, mà đặc biệt là đối với dân các chủng tộc khác, đến mức khó có thể
đưa ra được giải pháp hòa bình cho những mâu thuẫn một mất một còn như
thế. Khó có thể hi vọng rằng người Australia sẽ tự nguyện đồng ý cho
người châu Âu không phải gốc Anh nhập cư, và hoàn toàn loại trừ khả năng
họ sẽ cho phép người châu Á tìm kiếm công ăn việc làm và định cư ở trên
lục địa này. Người Australia gốc Anh khăng khăng rằng vì người Anh là
những người đầu tiên mở ra các khu định cư ở châu lục này cho nên trong
tương lai dân Anh vẫn có toàn quyền sở hữu toàn bộ châu lục. Nhưng người
của các dân tộc khác trên thế giới không bao giờ muốn thách thức quyền
chiếm hữu của người Australia trên những vùng đất mà họ đã canh tác ở
Australia. Người ta chỉ nghĩ rằng việc cấm sử dụng những khu vực có điều
kiện sản xuất thuận lợi hơn mà hiện đang bị bỏ hoang, và buộc họ phải tiến
hành sản xuất ở những khu vực có điều kiện kém thuận lợi ở quê hương họ
là việc làm bất công.