Chính sách này cần được xem xét từ hai quan điểm: thứ nhất, chính
sách của các công đoàn và thứ hai, chính sách bảo hộ của nhà nước.
Ngoài những biện pháp có tính bạo lực như đóng cửa cơ sở sản xuất,
đình công bắt buộc và dùng vũ lực ngăn cản những người muốn làm việc,
tổ chức công đoàn còn một cách gây ảnh hưởng đến thị trường lao động
nữa: giới hạn khả năng cung ứng sức lao động. Nhưng vì công đoàn không
thể giảm được số người lao động trên thế giới cho nên cách duy nhất là
ngăn không cho người ta tìm việc làm, và bằng cách đó giảm được số người
làm trong một ngành hay một nước nào đó, gây thiệt hại cho những người
làm việc trong các ngành khác hoặc sống ở những nước khác. Vì những lí
do chính trị thực tế, những người làm trong một ngành đặc biệt nào đó khó
có thể ngăn cản được công nhân trong nước xâm nhập vào ngành của mình.
Nhưng ngăn chặn lao động nước ngoài thì không có khó khăn gì.
Ở Mĩ, điều kiện sản xuất thuận lợi hơn và đồng thời năng suất lao động
cũng cao hơn, cho nên lương của người lao động cũng cao hơn so với phần
lớn khu vực ở châu Âu. Nếu không có những rào cản trong việc nhập cư thì
nhiều người lao động châu Âu đã di cư đến Mĩ để tìm việc làm. Luật nhập
cư của Mĩ làm cho việc đó trở nên đặc biệt khó khăn. Như vậy nghĩa là, tiền
lương ở Mĩ được giữ ở mức cao hơn là đáng lẽ nó có thể đạt được nếu
người ta được quyền tự do di cư, trong khi ở châu Âu tiền lương lại bị giữ ở
mức thấp. Thế là công nhân Mĩ được lợi, còn công nhân châu Âu lại bị
thiệt.
Nhưng sẽ là sai lầm nếu chỉ xem xét hậu quả của những rào cản của
việc nhập cư từ quan điểm là nó ảnh hưởng trực tiếp đến tiền lương. Hậu
quả sâu rộng hơn nhiều. Dư thừa lao động ở những khu vực có điều kiện
sản xuất kém thuận lợi, và thiếu hụt lao động ở những khu vực có điều kiện
sản xuất tương đối thuận lợi hơn dẫn đến kết quả là sản xuất được mở rộng
hơn ở những nơi không thuận lợi, và thu hẹp hơn ở những nơi thuận lợi hơn
là đáng lẽ phải có trong trường hợp được hoàn toàn tự do di cư. Không