chủ nghĩa tự do vẫn đặt chúng ở vị trí đó. Chúng tôi đã nói rằng cương lĩnh
hiện nay của chủ nghĩa tự do vươn cao hơn chủ nghĩa tự do cũ, nghĩa là nó
được soạn thảo trên những nhận thức thấu đáo và sâu sắc hơn các mối quan
hệ qua lại, bởi nó có thể tiếp nhận được thành quả khoa học trong hàng
chục năm qua. Tự do và hòa bình được đưa lên hàng đầu cương lĩnh của
chủ nghĩa tự do không phải bởi vì nhiều người theo phái tự do "cũ" coi
chúng là ngang hàng với chính nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa tự do,
thay vì coi chúng là hậu quả tất yếu của nguyên tắc nền tảng của chủ nghĩa
tự do - nguyên tắc sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất; mà chỉ vì tự do và hòa
bình đã bị những đối thủ của chủ nghĩa tự do tấn công quyết liệt nhất, và
những người theo phái tự do không muốn từ bỏ những nguyên tắc này để
chứng tỏ rằng họ không công nhận những lời cáo buộc của đối thủ.
2. Tự do
Ý tưởng tự do đã ăn sâu bén rễ trong tất cả chúng ta đến nỗi suốt một
thời gian dài không ai dám nghi ngờ. Người ta đã quen nói tới tự do với
lòng sùng kính vô bờ bến, chỉ có Lenin mới dám gọi đó là "thành kiến tư
sản". Đấy chính là thành quả của chủ nghĩa tự do, mặc dù thực tế này hiện
đã bị nhiều người quên. Chính từ "Chủ nghĩa tự do" cũng bắt nguồn từ từ
"tự do"; còn ban đầu, đảng chống lại những người tự do [cả hai tên gọi đều
xuất hiện trọng cuộc đấu tranh lập hiến những thập kỉ đầu tiên của thế kỉ
XIX ở Tây Ban Nha] lại được gọi là "nô lệ" ("servile")
Trước khi chủ nghĩa tự do xuất hiện, ngay cả những nhà triết học sáng
láng nhất; những ông tổ của các tôn giáo và giới tăng lữ, những người mang
trong tâm tưởng những ý định tốt đẹp nhất, và các chính khách thực sự yêu
thương người dân nước mình, đều coi tình cảnh nô lệ của một phần nhân
loại là chính đáng, hữu ích và rất có lợi. Người ta cho rằng một số người và
một số dân tộc được phú cho quyền tự do, còn những người khác thì phải
chịu cảnh nô lệ. Không chỉ các ông chủ nghĩ như thế mà phần lớn nô lệ