Đền Hạ. Rồi đến đền Trung. Không có gì lạ cả. Ông cụ Sần cho nơi
này là tầm thường. Người xứ Đoài, ai chả từng có dịp để dấu bàn chân lên
đây một lần rồi. Nếu có những cái gì đáng mở mắt cho to mà xem kia, thì
phải là lên nữa, lên trên nữa, trên đền Thượng. Thành đá đổ mồ hôi lạnh
trước soai soải, giờ đã đứng thẳng mãi lên rồi dựng ngược. Vách đá đứng
sững trước mặt bọn người đăng sơn. Thế này thì leo lên làm sao, hiệp thợ
tự hỏi. Ông cụ Sần vốn có biết truyện Tam Quốc, tấy cái thế của núi đứng
rất hiểm nghèo, bèn nghĩ đến cái nước non xứ Ba Thục mà có những lúc
người làm tướng biết dùng binh thì lợi hại vô cùng. Ở cái yết hầu con
đường đèo trên kia mà xếp sẵn gỗ cưa ngắn từng đoạn và đá tảng, mỗi lúc
lăn xuống, gỗ đá lao xuống như nước thác, thì chỉ một người cũng đủ địch
với cả một binh đoàn cảm tử.
Cô lái đò hướng đạo quay lại. Cả hiệp thợ mộc lấy gần kìm bước lại,
đứng thẳng lên, rồi ưỡn người hơi ngả về phía sau. Họ ngắm kỹ, không có
một phút dám nghĩ đến lơi lả. Có ông Sần là nhớ đến cái Bèo ở nhà: đứa
con gái út cụ, cũng thon thon như cô lái. Cái vẻ ống dáng của cô lái bây giờ
không con nữa. Cái người đoan trang ấy giờ là người đứng ra để truyền một
cái lệnh.
Cô cầm sẵn trong tay một nắm lá trông sắc đỏ như là mãn đình hồng,
phân phát cho mỗi người một lá, bảo ngậm lấy, lấy sức mà lên cao, mà
chống lại khí núi. Đường đi từ đây lên đấy, tính thời gian theo cái phép đo
lường của hạ giới thì cũng phải mất đến nửa ngày. Người con gái đưa
đường lên tiên bảo thế. Cô lái dặn sáu người phó mộc lên buộc vào lưng
cho kỹ những đồ làm đem theo, nắm lấy tay nhau cho thật vững và nhắm
mắt lại. Thế rồi cả đoàn người cứ thấy bay lên, cứ chọc thủng các lớp mây.
Từ dưới bây vụt thẳng lên cao lắm, hiệp thợ ấy chỉ là những hạt mẳn sắt bị
một khối đá nam châm xa cao tít tắp hút ngược lên. Bên tai hiệp thợ phi
hành, chỉ có gió vù vù. Cái lá thắm mãn đình hồng ngậm trong miệng làm
nóng ấm cơ thể bọn thợ đang băng mình qua cái miết lạnh của sơn cước
mỗi lúc một cao, một dầy, một tức thở. Cả bọn thợ không ai lấy làm sợ hãi