Tuck
. Những mục đầu tiên có vẻ bắt đầu trước thời Frodo ít nhất chín
trăm năm; nhiều mục được trích lại trong sử ký và phả hệ trong cuốn Sách
Đỏ. Chúng dùng tên thứ theo các dạng cổ, cổ nhất là: (1) Sterrendei, (2)
Sunnendei, (3) Monendei, (4) Trewesdei, (5) Hevenesdei, (6) Meresdei, (7)
Hihdei. Trong ngôn ngữ thông dụng thời diễn ra Nhẫn Chiến, các tên này đã
trở thành Sterday, Sunday, Monday, Trewsday, Hevensday (hoặc Hensday),
Mersday, Highday.
Những tên này tôi cũng đã dịch sang tên Anh, tất nhiên bắt đầu bằng
Chủ Nhật và thứ Hai (Sunday, Monday), hai ngày cũng có trong tuần ở
Quận mang tên giống như trong tiếng Anh, và đổi lại các tên khác theo thứ
tự. Tuy nhiên cần lưu ý rằng hàm nghĩa của các tên ở Quận lại tương đối
khác. Ngày cuối tuần tức thứ Sáu (Highday) là ngày quan trọng nhất, cũng
là ngày nghỉ (từ sau chính ngọ) và tiệc tùng buổi tối. Vì vậy thứ Bảy giống
với thứ Hai của ta, còn thứ Năm giống thứ Bảy của ta thì đúng hơn
Có lẽ nên điểm thêm vài tên khác chỉ thời gian, dù không dùng để
tính toán chuẩn xác. Các mùa thường được gọi tên là tuilë, xuân, lairë, hạ,
yávië, thu (hay mùa thu hoạch), hrívë, đông; nhưng những tên này cũng
không được định nghĩa chính xác, và họ còn dùng quellë (hoặc lasselanta)
chỉ nửa sau mùa thu và phần đầu của mùa đông.
Dân Eldar đặc biệt chú ý đến “bóng tà” (ở các vùng Bắc), chủ yếu là
vì đó là thời khắc sao tàn và thời khắc sao nở. Họ đặt rất nhiều tên cho hai
giờ đó, quen thuộc nhất có tindómë và undómë, là hai từ chỉ thời điểm trước
bình minh, và thời điểm chạng vạng tối. Từ tiếng Sindarin là uial, chia làm
minuial và aduial. Ở Quận thường gọi là bóng sớm và bóng chiều. Ss. Hồ
Bóng Tà là cách dịch của Nenuial.
Niên lịch Quận và ngày tháng Quận là hệ lịch duy nhất có ý nghĩa với
bản kể về cuộc Nhẫn Chiến. Tất cả thứ ngày tháng đều được dịch sang tên
Quận trong cuốn Sách Đỏ, hoặc đối chiếu trong phần chú thích. Vì thế các