“Có điều gì đó trong câu nói ấy đã thu hút tôi mạnh mẽ. Một cuộc đời
minh bạch hữu ích.” Bà mỉm cười với tôi. “Tôi có thể nghĩ đến nhiều văn
bia còn tồi tệ hơn cái đó, thưa bà.” Mẹ Hildegarde đột nhiên xòe hai bàn tay
và nhún vai, một cử chỉ duyên dáng lạ kỳ.
“Tôi đã ước mong mình có ích,” bà nói. Sau đó, gạt đi cuộc chuyện trò
vu vơ, bà đột ngột quay lại với bản nhạc trên giá đàn.
“Vậy,” bà nói. “Đơn giản sự thay đổi trong các bộ khóa đó - note
tonique đó - cái đó thật là kỳ quặc. Chúng ta có thể đi đến đâu với nó?”
Miệng tôi há hốc kèm theo một tiếng reo kinh ngạc nho nhỏ. Tôi
không để ý rằng chúng tôi vẫn đang nói chuyện bằng tiếng Pháp. Nhưng
nhận ra lúc Mẹ Hildegarde kể câu chuyện của bà, tôi vẫn đang suy nghĩ
bằng tiếng Anh, nên khi liếc nhìn lại bản nhạc, nó khiến tôi sửng sốt.
“Cái gì thế?” Mẹ Hildegarde hỏi. “Bà nghĩ ra điều gì ư?”
“Cái khóa nhạc!” Tôi nói, bật cười. “Trong tiếng Pháp, cái khóa nhạc
là note tonique, nhưng từ để gọi một đồ vật mà mở…” Tôi chỉ vào chùm
chìa khóa - bình thường được mang theo trên thắt lưng của bà - mà Mẹ
Hildegarde đã để sang bên cạnh giá sách khi chúng tôi đi vào phòng này.
“Đó là một passe-partout
, đúng không?”
“Đúng thế,” bà đáp, nhìn tôi vẻ bối rối khó hiểu. Bà chạm vào chiếc
chìa khóa vạn năng. “Une passe-partout
. Cái này,” bà nói, chỉ vào một
cái chìa dạng ống có nhiều rãnh, “có thể gọi là clef
thì thích hợp hơn.”
“Clef!” Tôi reo lên sung sướng. “Hoàn hảo!” Tôi chỉ tay vào tờ giấy
chép bản nhạc trước mặt. “Thấy không, ma mère, trong tiếng Anh, nó cũng
được gọi như thế. “Khóa” vừa là nền tảng căn bản của đoạn nhạc, vừa là
một “cái chìa khóa” dùng để mở ổ khóa. Trong tiếng Pháp, clef là một cái
chìa khóa, trong tiếng Anh, clef cũng là một phần của bộ khóa nhạc. Và
khóa nhạc này cũng chính là chìa khóa của mật mã. Jamie đã nói anh ấy
nghĩ nó là một mật mã bằng tiếng Anh! Được tạo ra bởi một người Anh có
khiếu hài hước hiểm hóc,” tôi bổ sung.