thanh kiếm từ nền cỏ thì tôi phát hiện trong hàng khán giả đã thiếu mất hai
người.
Một là Công tử Kilmarnock mười hai tuổi, nằm úp sấp trên rìa sân cỏ,
một cục u sưng vù trên đầu trồi ra từ mái tóc thẳng màu nâu. Người thứ hai
không thấy tăm hơi đâu, nhưng tôi nghe được một tiếng thì thầm từ khoảng
bóng râm đằng sau mình.
“Ne pétez plus haut que votre cul,” nó nói với vẻ mãn nguyện. Đừng
có không biết lượng sức mình!
•••
Thời tiết ấm áp bất thường so với tiết trời tháng Mười một, và những
đám mây luôn hiện diện giờ đã tan ra, để ánh mặt trời mùa thu thoáng soi tỏ
sự u ám của Edinburgh. Tôi tận dụng sự ấm áp ngắn ngủi này để ra ngoài,
tuy chỉ trong chốc lát, và lồm cồm bò xuyên qua khu vườn giả sơn đằng sau
Holyrood, thấy mừng vì có vài người vùng cao cũng đang lảng vảng bên
ngoài tận hưởng nắng trời theo cách của họ, với một bình rượu whisky tự ủ.
“Nghệ thuật bắt burras
ư, thưa bà?” Một người gọi vọng tới.
“Không, là các nàng tiên, chắc chắn thế, không phải sâu bướm đâu,”
một kẻ khác trêu chọc.
“Các vị có khả năng tìm thấy tiên trong cái bình rượu đó hơn là tôi ở
dưới đống đá này đấy,” tôi đáp lại.
Người đàn ông giơ bình rượu lên, nhắm một mắt và nhòm vào lòng
bình với dáng vẻ phô trương.
“Ái chà, miễn là trong cái bình của tôi không có lũ sâu bướm,” ông ta
nói, rồi tu một hớp lớn.
Thực ra, thứ tôi đang tìm đối với họ ít nhiều chỉ có ý nghĩa như lũ sâu
bướm mà thôi, tôi ngẫm nghĩ, đẩy mạnh một tảng đá nhích ra vài phân, để
lộ lớp địa y màu nâu cam trên bề mặt của nó. Tỉ mẩn cạy ra từng mảnh nhỏ