(Viết theo Nguyễn Văn Tố dịch từ Liệt Truyện Nhị tập, quyển 9, tờ 13a-16b)
______________
Nguyên chú của Liệt Truyện:
(1) Huyền Minh là chức quan coi dưới nước,
(2) Việt Cơ: nàng hầu yêu của vua nước Sở, một hôm nàng cùng vua lên trên
đài chơi, vua ngoảnh lại hỏi: “Có vui không?” Nàng thưa rằng: “Vui thì vui
thực, nhưng không biết có được lâu như thế không!” Vua nói rằng: “Ta nguyện
cùng nàng sống như thế này, chết cũng lại như thế này”.
Nàng vẫn chưa tin lời vua nói là đúng. Kịp đến khi vua Sở đi cứu nước Trần,
nàng Việt Cơ đi theo, chẳng may vua bị bệnh, có đám mây đỏ giáp mặt trời như
hình chim bay, vua hỏi quan sử, quan sử tâu rằng: “Điềm ấy hại đến thân vua
nhưng có thể gán cho tướng văn hoặc tướng võ”, vua không nghe nàng Việt Cơ
nói “Tốt thay đức của Quân Vương, tôi xin theo vua”. Nói rồi liền tự tử nên
người ta nói là nghĩa tử.
(3) Thiên đàn xung hạ, trong khi Lễ chép: Tử Xa chết ở nước Vệ, người nhà
bàn việc tuần táng (đem người sống chôn theo).
(4) Đông Chu Liệt Quốc chép: Tử Tư chạy sang nước Ngô giữa đường bị
bệnh, xin ăn trên bến sông Lại. Có người con gái hái dâu ở bến sông Lại mở
bầu cơm cho ăn, rồi người con gái tự hối, đậy bầu cơm lại, gieo mình xuống
sông Lại mà chết.
(5) Tam Quốc Chí chép: Tiểu Chu khi xác mất, dặn người nhà rằng: “Lâu nay
ta bị bệnh, chưa từng vào chầu. Sau khi ta mất, nếu ơn vua cho triều phục, chở
mặc vào mình, nên về chỗ mộ cũ, làm áo quan nhẹ để chịu ơn”.
(6) Kinh Lễ, Thiên Tạp ký, chép: Lễ tán là thẳng đường mà đi.
(7) Nam sử chép: Viêm Giám Thâm theo Lưu Khải sang Giao Châu rồi mất,
người vợ họ Trịnh khóc rằng: “Hồn họ Viên còn mắc ở đây thì mặt mũi nào về