CHUYỆN CON CHÓ TÊN LÀ TRUNG THÀNH - Trang 7

Tôi cũng đang nằm nghỉ, ở cách xa họ. Tôi cũng thích được ở gần

nguồn hơi ấm lắm chứ, nhưng tôi phải tránh ngọn lửa mà đám người kia
mới nhóm vì khói sẽ làm mờ mắt tôi và khiến khứu giác tôi không còn
nhận biết được sự thay đổi của các loại mùi nữa. Đám ấy chỉ nhóm được
một ngọn lửa heo hắt chẳng mấy mà tắt. Đám ấy đâu có biết rằng lemu, khu
rừng, ban tặng một loại củi khô rất bén lửa, chỉ cần hỏi xin rừng bằng cách
gọi mamüll, mamüll, thế là khu rừng hiểu ra con người đang lạnh và sẽ cho
phép họ chăm lửa.

Tiếng ộp oạp của llüngki, con ếch núp giữa khe đá ở bờ bên kia leufü,

con sông chảy từ trên núi xuống, vọng đến tai tôi như lời cảnh báo. Thảng
hoặc konkon, con cú, lại kêu lao xao như tiếng gió từ trên ngọn cây và
pinüyke, con dơi, lại vỗ đôi cánh bay đi bắt những loài sâu bọ ban đêm.

Đám người sợ những tiếng động của đêm. Họ ngọ nguậy trong lo âu

và tôi cảm nhận được cái mùi chua gắt của nỗi sợ không để họ được yên ổn
mà nghỉ ngơi. Tôi cố nhích ra xa họ một chút, nhưng sợi xích buộc ngang
cổ tôi, đầu kia buộc vào một thân cây, khiến tôi lực bất tòng tâm.

- Có cần cho con chó ăn không? Một người hỏi.

- Không cần, giống chó thường săn tốt hơn khi bị bỏ đói, gã thủ lĩnh

đáp.

Tôi nhắm mắt lại, tôi đói và tôi khát, nhưng như thế cũng chẳng hề gì.

Đối với đám người kia, tôi cũng chỉ là một con chó, không hơn không kém,
và tôi cũng chẳng thể chờ đợi ở họ điều gì khác ngoài những trận đòn roi.
Thì có hề gì đối với tôi, vì từ bóng tối của đêm đen bay đến mùi hương
thoang thoảng của những gì tôi đã mất.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.