phù Lê chứ không phải vì ganh ghét với Trịnh Tùng như trong Toàn
thư, bộ sử chính thức, đã kể. Tinh thần đó không phải chỉ có ở những
nhân vật khoa bảng. Trịnh Tạc (làm chúa từ 1657-1682) muốn phá vỡ
hình thức tôn quân, nhân ngày Nguyên đán, định bắt các quan mặc
triều phục chầu vua, cứ mang nguyên phẩm phục ấy sang chầu mình.
Vũ Duy Chí làm tể tướng (1669), vốn bị đồng liêu chê là từ chân lại
thuộc mà ra, nhưng vẫn lên tiếng can ngăn vì cho là “trái với chế độ
cũ”, khác với truyền thống “nhà chúa... một niềm tôn phục hoàng gia”.
Tuy năm 1673, Trịnh Tạc dời việc nước vào bàn ở phủ mình, nhưng
loạn kiêu binh ngay năm sau chứng tỏ là quyền chúa vẫn còn lung lay.
Sự khinh miệt hoạn quan thấy rõ trong trước tác tuy xuất hiện về sau
nhưng của một người trong dòng họ phục vụ Trịnh Lê: Phan Huy Chú
với Lịch triều hiến chương loại chí. Ông này kể các danh nhân đều là
nho sĩ, tướng gia văn thần. Không thể loại trừ Lý Thường Kiệt, Hoàng
Ngũ Phúc nhưng thêm chữ “tự thiến” để tỏ rõ sự cầu cạnh. Và vì có lẽ
không biết (hay tránh né?) Lý Thường Kiệt còn được ghi với tên Lý
Thượng Cát nên trong truyện Lý Đạo Thành, tác giả tha hồ mượn tên
đó để kể tội hoạn quan: “Lý Thượng Cát là chức ngự tụ, cậy được
thương yêu, bàn chõ vào việc chính”.
Ngay bên trong gia đình, Trịnh vẫn không yên tâm. Trịnh xuất
thân từ vùng thượng du Thanh Hóa cũng thuộc các nhóm “thiểu số”
hoạt động nổi bật theo sự hưng khởi của nhóm Mường Thái Lam Sơn.
Điều chắc chắn là gia phả họ Trịnh không giấu sự thấp kém của ông tổ
Trịnh Kiểm vốn từng đi ăn trộm.
Ông này có bạn thân đến mức hy
sinh giúp nhau làm cả những việc nguy hiểm, là một người gốc Chàm.
(Hữu Ngọc - Nguyễn Đức Hiền, “Gốc tích các chúa Trịnh và một bức
thư nôm của Trịnh Kiểm”, La Sơn Yên Hồ..., tập II, tr. 649-669). Và
ông tổ của dòng vua Nguyễn sang cả, lúc đó cũng chịu gả con cho một
tên trộm. Tất cả chứng cớ đều nói lên một mức độ sàn sàn như nhau
trên vùng “sơn cước” của các dòng họ cầm quyền về sau của nước
Việt, không có dáng gì như các nho gia Thăng Long, Huế cao tiếng