lúc nó thắc mắc hổng biết cô đã thấy con nhỏ Êmê quàng tay nó bao giờ chưa mà cứ hay
nhét cỏ xạ hương vô túi áo nó.
Nguyên nằm nghĩ ngợi miên man, nhắm mắt lại vờ ngủ, tin rằng như vậy Kăply sẽ không
có cớ bắt chuyện, không biết thằng bạn nằm giường bên cạnh cũng đang thao thức và suy
nghĩ lung tung không khác gì mình.
Có thể thấy rõ là đêm hôm đó Nguyên và Kăply đều bị ám ảnh bởi những chiếc ghế ngựa
vằn nhưng rốt cuộc cả hai đã không hề nói với nhau về chuyện tụi nó sẽ làm gì nếu tìm thấy
hai chiếc ghế đó trong bí thất của ông K'Tul, nhưng như vậy thì lẽ ra sáng hôm sau, trước
khi cùng thằng Suku chun vô căn nhà kho, tụi nó cũng trao đổi với nhau về chuyện này mới
phải. Vậy mà trên thực tế hổng có gì giống như vậy hết: tụi nó đứa nào cũng im im, từ lúc
leo xuống khỏi giường, đi tắm, thay đồ rồi ngồi đợi Suku, cả Nguyên và Kăply đều tránh
nhìn vào mắt nhau, nếu bốn ánh mắt lỡ giao nhau thì cả hai liền hấp tấp quay mặt đi, làm
như thể nếu nhìn nhau lâu hơn chút nữa thì chắc nụi là cả hai sẽ òa ra khóc.
Dĩ nhiên Nguyên hiểu rõ những gì đang xảy ra trong lòng tụi nó, vì thế mà nó rất khó chịu
về tình huống mà nó và Kăply đang rơi vào. Lúc mới lạc bước đến xứ Lang Biang, Nguyên
nôn nóng tìm ra hai chiếc ghế ngựa vằn biết bao, mong muốn cháy bỏng nhất của nó trong
lúc đó là bằng mọi giá phải thoát ngay về làng Ke, nhưng bây giờ thì Nguyên bối rối, thậm
chí khổ sở khi bắt gặp những thay đổi trong lòng mình. Dù sao thì nó và Kăply cũng phải
quay về làng. Điều đó không cần phải bàn cãi nhưng Nguyên biết là nó (và chắc chắn là cả
Kăply nữa) chưa muốn xa rời xứ Lang Biang trong lúc này. Sứ mạng tìm kiếm báu vật chưa
hoàn thành, sứ giả Buriăk và hữu hộ pháp Balikem đang quẩn quanh đâu đây, trong khi đó
trùm Bastu sắp quay lại và lão Ôka Na lúc nào cũng sẵn sàng trỗi dậy như một nguy cơ tiềm
ẩn - trước bao nỗi rối ren đó, Nguyên cảm thấy ra đi trong lúc này chẳng khác nào một cuộc
chạy trốn, nhất là tụi nó đang được bao nhiêu người kỳ vọng. Về hay không về? Nguyên tự
hỏi không phải chỉ một lần, và cũng không chỉ một lần nó không tìm ra câu trả lời dứt khoát.
Vì vậy mà nó không dám nhìn thẳng vào mắt Kăply và nó biết cũng với lý do tương tự mà
Kăply không dám nhìn thẳng vào mắt nó. Bởi tụi nó thật khó mà chọn cho được một vẻ mặt
phù hợp với tâm trạng đang rối bời và nhỡ đứa kia buột miệng hỏi về đề tài gay cấn đó thì
đứa này thiệt tình không biết phải đáp làm sao. Cho nên tốt nhất (mà cũng có thể là xấu
nhất) là chẳng nói gì hết, mặc dù Nguyên thấy rõ khi vờ làm ra vẻ không nghĩ gì đến những
chiếc ghế ngựa vằn thì tụi nó lại càng có vẻ chỉ nghĩ về mỗi chuyện đó thôi.
Suku không biết nỗi lòng của hai bạn nên vừa đút đầu vô phòng, nó tưởng mình bị hoa
mắt:
- Làm gì mà hai anh dàu dàu vậy? Em cam đoan bữa nay thế nào cũng mở được cánh cửa
chết tiệt đó mà.
Thằng nhóc không nói ngoa. Khi đứng trước bí thất của ông K'Tul, nó đeo chiếc găng tự
chế vào rồi áp tay lên hình bàn tay in lõm trên cánh cửa, lầm rầm niệm chú: trước vẻ mặt
đau đáu của Nguyên và Kăply, cánh cửa đột ngột trượt qua một bên như có ai kéo mạnh.
So với căn phòng âm u phía ngoài, bí thất của ông K'Tul giống như đang phơi mình dưới
nắng: một quả bí được phù phép đang tỏa sáng rực rỡ đằng góc phòng khiến bọn trẻ phải
đưa tay lên dụi mắt bốn, năm lần trước khi đặt chân qua ngưỡng cửa.