Muốn đến chỗ giáo chủ Ama Êban phải đi qua ít nhất là mười lăm lớp cửa, giải ít nhất
mười lăm loại bùa ếm khác nhau, đó là nói lối đi ngắn nhất và với điều kiện kẻ đột nhập
không bị bất tỉnh hay bị tan xác dọc đường. Nếu không chết, kẻ đó mới lọt qua được cánh
cửa đá cuối cùng chạm trổ vô số mãnh hổ ở nhiều tư thế khác nhau, đặc biệt là trông sinh
động như một bầy cọp sống.
Lúc bọn trẻ lâu đài K’Rahlan đang nằm mọp ở hẻm Râu Ngô thì bà Êmô đang đứng trước
cánh cửa đó, cánh cửa thứ mười lăm, tay vuốt lại vạt áo chùng, một động tác hoàn toàn
không cần thiết vì các nếp áo của một phụ nữ đỏm dáng như bà bao giờ cũng phẳng phiu
như vừa lấy từ tiệm giặt ủi về.
Bà nhìn lên những hình vẽ sống động trên cánh cửa, đã mấy lần tính mấp máy môi nhưng
rồi bà lại bỏ dở câu thần chú để nấn ná thêm một lúc trước khi diện kiến giáo chủ của bà. Bà
biết Ama Êban lúc này đã gần như hết kiên nhẫn với bà và pháp sư K’Tul. Đã mười mấy năm
rồi, bà và ông K’Tul ngày đêm âm thầm lục soát không sót một xó xỉnh nào của lâu đài
K’Rahlan, vậy mà vẫn không hoàn thành được sứ mạng mà Ama Êban giao phó. Chính vì lý
do đó mà lần nào trở về lâu đài Sêrôpôk, bà cũng bắt gặp mình đứng tần ngần trước cánh
cửa mở vào bí thất của giáo chủ.
Nhưng dĩ nhiên bà biết là bà không thể đứng chết lặng ở đó mãi. Cuối cùng, không biết là
lần thứ mấy, bà đưa tay vuốt lại nếp áo, chỉnh lại cái nón chóp vốn đã nằm rất ngay ngắn
trên đầu, rồi hắng giọng như để xốc lại bản thân trước khi quyết định lầm rầm niệm chú.
Cánh cửa đá lập tức xịch qua một bên, kéo theo vô số mãnh hổ vào bóng tối để mở ra
trước mắt bà khung cảnh trang nghiêm với hàng dãy cột đồng cũng chạm hình cọp với
những chiếc nanh lấp lánh dưới ánh sáng vàng khè tỏa ra từ những quả cam được phù phép
nằm chi chít hai bên vách.
Chính giữa bí thất, giáo chủ Ama Êban râu tóc bạc phơ, hai hàng lông mày trắng như cước
rủ xuống hai bên trông như một ông tiên, đang ngồi trên lưng một con cọp vàng to tướng.
Trông dáng ngồi bất động của ông, tưởng như ông đã ngồi ở tư thế đó từ lâu lắm để đợi
người thuộc hạ của mình, cặp mắt sáng quắc của ông chiếu về phía bà Êmô như hai ngọn
đèn săn khiến bà phải gắng hết sức để tỏ ra tự nhiên.
- Hôm nay chắc là ngươi cũng không đem về tin tức gì tốt lành? - Ama Êban cất giọng trầm
trầm, câu hỏi kiểu trách cứ này bà Êmô nghe đã nhiều lần nhưng lần nào bà cũng cảm thấy
chột dạ như thể bà vừa phạm thêm một lỗi lầm mới.
- Vâng. - Bà nói, đầu cúi thấp đến mức có cảm tưởng cằm bà chạm vào xương ức và chiếc
nón chóp sắp tuột ra khỏi mái tóc vàng óng như tơ - Thưa ngài, pháp sư K’Tul vẫn chưa giải
mã được câu thơ…
- Hừm, thơ với thẩn! - Ama Êban vỗ tay lên lưng cọp, và khi ông nói có thể thấy là ông cố
kềm chế để không tỏ ra thô lỗ trước mặt phụ nữ - Ta đã bảo ngươi nói với hắn là dẹp mấy
câu thơ nhảm nhí đó lại đi. Phải nghĩ cách khác. Phải để mắt đến những gì nhỏ nhặt nhất
trong lâu đài. Thiệt là tệ hại, bọn ngươi mai phục ở đó gần hai mươi năm mà chẳng tìm
được một mảnh da dê nào, trong khi trùm Bastu chỉ đột nhập vào lâu đài K’Rahlan có một
đêm ngắn ngủi đã lấy được ba mảnh; ba mảnh kia thì Ka Ming đã kịp đem đi ngay trong
đêm hôm đó.