với ông anh Nhất, nhưng vận may thì quả thực chỉ có hơn. Ngay lần đào
bới đầu tiên, chúng tôi đã tìm được một đống đồ sứ thời Tống, đại đa số là
bát đĩa bình lọ được nung trong các lò nung dân gian. Sau khi chọn lọc, số
lượng có thể bán được tiền chỉ có chừng bốn năm cái. Mặc dù chẳng có giá
trị mấy, nhưng đối với cái xóm nghèo mạt rệp này, vẫn có thể coi như lần
đầu tiên kiếm được vật báu."
Răng Vàng đã thành tinh trong cái nghề này, biết thừa là phải bán ra
từng ít một, nếu như lập tức tung ra quá nhiều vật phẩm đồng loại, giá
đương nhiên sẽ giảm, không có lợi. Anh ta phân chia số đồ gốm thành vài
loại, chọn một cái chén trà hoa lan giá trị vừa phải rồi đưa cho ông cụ Lữ
mang ra ngoài bán, luôn mồm dặn dò ông lão không được hé lộ thông tin gì
về mình. Dựa theo lời chỉ dạy của Răng Vàng, ông cụ Lữ chọn một gian
tiệm nhỏ, bảo rằng mình là nông dân, muốn bán bảo vật ông bà để lại lấy ít
tiền để cưới vợ cho thằng con trai. Loại mua bán nhỏ lẻ này có thể nói là
chuyện xảy ra như cơm bữa trong giới mua bán đồ cổ, không có một ai chú
ý đến cả.
Sau khi xem hàng xong, chủ tiệm nói cái chén này là sản phẩm của lò
nung dân gian thời nhà Thanh, chỉ trả có hai trăm đồng. Ông cụ Lữ kỳ kèo
thêm được hai mươi đồng nữa mới chịu mãn nguyện quay về xóm.
Mặc dù hai trăm đồng chỉ là một cái giá bèo bọt rẻ như cho, nhưng
điều mà Răng Vàng muốn chính là một vụ mua bán không làm bất cứ ai
chú ý tới như vậy, tránh cho sau này có ai nghi ngờ rồi tiến hành truy tra,
rước thêm nợ vào người.
Nghe anh ta kể một lúc lâu rồi mà tôi vẫn chưa thấy có điểm quan
trọng nào cần chú ý, cũng chẳng thấy có gì đáng để bảo rằng 'không sạch
sẽ' cả, bèn hối thúc anh ta kể nhanh lên. Răng Vàng giật lấy chai nước của
tôi, uống ừng ực một hơi: "Kể chuyện thuyết thư phải giải lao giữa chừng
chứ, đâu thể thúc ép dồn dập như ông anh thế này. Hơn nữa, phần sau sự
việc này diễn ra quá chóng vánh, bản thân tôi không tài nào hiểu nổi."