tác phẩm của mình. Đó thực sự là một canh bạc đầy bất trắc, nhưng lách
luật với sự giúp đỡ của một vị tai to mặt lớn thì bao giờ chẳng dễ dàng hơn.
Tất cả chỉ là giả thiết mà thôi, hiển nhiên rồi. Lý do Gertrud cho rằng bà
có thể thực hiện dự án đó vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng,
nhưng tôi có thể đưa ra một khả năng khác: có lẽ tôi đã đánh giá thấp khát
vọng được đời sau nhớ đến của bà. Hư danh vừa là một nguồn động lực
mạnh mẽ vừa là một kẻ lừa gạt tài tình, và cái ý tưởng để lại một di sản
vĩnh cửu có thể khiến người cẩn trọng nhất cũng trở nên liều lĩnh. Có lẽ bà
đã tự thuyết phục bản thân rằng mình chẳng làm gì sai trái dù không được
cho phép. Xét cho cùng, bà đã dịch từ bản tiếng Latin được viết vào thế kỷ
thứ tư, và niềm tin vững như kiềng ba chân vào bản dịch tuyệt vời của mình
có lẽ đã đẩy bà tới mức rốt cuộc đánh cược vào việc cuốn Kinh Thánh của
bà sẽ hay đến độ không thể bị phạt. Ta có thể hình dung bà lý luận rằng sự
tồn tại của cuốn Die Gertrud Bibel đủ để miễn tra cứu nguồn gốc bí ẩn của
nó, và vì tác phẩm phải kéo dài cho tới cuối đời, có lẽ bà cũng sẵn lòng
chấp nhận mạo hiểm. Các nhà chức trách còn làm gì được với một bà già
biết chỗ của mình trên Thiên đường đã được sửa soạn xong cả rồi chứ?
Khi cuối cùng tôi cũng hỏi Marianne Engel việc dịch cuốn Die Gertrud
Bibel là do ai thông qua, tôi đã mong nhận được một câu trả lời chắc chắn
hoặc một lời đáp đầy mâu thuẫn có thể vùi dập câu chuyện đó một lần và
mãi mãi. Nhưng câu trả lời của cô chẳng hề trùng khớp.
“Hồi đó tôi còn quá nhỏ nên chẳng mảy may thắc mắc gì, mà Gertrud
cũng chẳng bao giờ nói. Bà lúc nào cũng giữ bí mật về chuyện đó và không
một nữ tu nào được hé lộ câu gì ngoài phòng viết cả.”
“Chẳng lẽ họ không phản kháng à,” tôi hỏi, “nếu họ tin là có gì đó không
chính đáng?”