mình, nhưng sau vài tháng ở cùng anh tôi đã nhận ra một cuộc đời đức hạnh
hầu như chẳng phải cuộc sống đích thực.
Dù sao, tôi cũng đã thích nghi được với cuộc sống ngoài tu viện. Tôi vẫn
đến nhà thờ thánh Martin nhưng chẳng mấy chốc tôi đã chuyển sang cầu
nguyện cho sức khỏe của anh và mong anh chóng tìm được việc làm, nghĩa
là giờ đây tôi cầu nguyện cho những gì tôi mong sẽ xảy ra chứ không phải
cho những gì Chúa đã mang lại. Ngoài nhà thờ, tôi bắt chuyện với mấy cô
Beguine trên phố và kết bạn được với vài người.
Giáo hội về cơ bản coi việc mấy kẻ vô danh tiểu tốt cứ đòi xía vào việc
của Chúa là không hợp tí nào, nhưng tôi thì không thấy thế. Những người
Beguine làm việc trên phố và thực hiện đúng lời thề sống trong nghèo khó
của họ; họ hoàn toàn tương phản với những người sống trong nhà thờ, vì tôi
đã phát hiện ra rằng phần lớn các linh mục đều không xứng đáng và thậm
chí có người còn biển thủ của công nữa. Người Beguine tự cung tự cấp
bằng những đồ thủ công nhỏ và những công việc trong bệnh viện, bằng
lòng với những món tiền người dân tự nguyện quyên góp, thay vì áp chế
thuế má bắt buộc. Hằng đêm họ sẽ quay trở lại nghỉ tại dãy nhà nhỏ của
mình để lại bắt đầu quy trình vào sáng hôm sau, và sự thành tâm của họ thì
không có gì phải bàn cãi. Chẳng bao lâu sau tôi đã nhận ra rằng lý do chính
để Giáo hội chống lại người Beguine là vì những kẻ vô danh tiểu tốt này
biến Giáo hội thành kẻ xấu.
Những người Beguine không thể hiểu tôi thật sự là ai. Tôi có thể nói
hàng giờ về Kinh Thánh và tôi có thể đọc được cả tiếng Latin lẫn tiếng
Đức. Tôi đã học tất cả sách của các học giả và chuyên gia. Tôi biết về
Mechthild von Magdeburg, nữ tu sĩ có tầm ảnh hưởng lớn tới những người
Beguine, và tôi cũng chẳng lạ gì kiệt tác của bà, Ánh sáng rực rỡ dịu dàng
của Chúa Thánh Thần. Tôi biết tất cả những thứ này nhưng tôi không thể -
không bao giờ - nói cho họ biết là bằng cách nào và tại sao. Tôi gây ấn
tượng tốt nhưng lại rất khó hiểu. Cái họ quan tâm nhất, tuy thế, lại là tri