cách chọi nhau từ các chuồng ba góc của chúng, trong những đường dích-
dắc của một hàng rào song sắt ngăn chia. Qua những ngày tiếp theo, bác
Mingô thực tế ốp Joóc chạy ngược chạy xuôi, cho gà ăn ngô tấm, yến mạch
lứt, vỏ sò, than, và mỗi ngày ba lần thay nước suối trong những hộp thiếc.
Joóc không bao giờ tưởng tượng mình có thể cảm thấy sợ gà - đặc biệt
là những con trống nòi đang bắt đầu mọc cựa và phát triển màu lông, chúng
vênh vênh đi đi lại lại, không biết sợ là gì, mắt long lanh thách thức. Những
lúc không bị bác Mingô trực tiếp giám sát, Joóc thỉnh thoảng lại cười to khi
thấy mấy con trống tơ đột nhiên ngật đầu ra đằng sau, cất giọng cổ ọ ẹ kêu
như đang cố đua với tiếng kêu khàn khàn của những con lão tướng sáu, bảy
năm; mỗi con đều mang những vết sẹo của nhiều trận giao tranh đã qua -
mà bác Mingô gọi là "gà mồi" và bao giờ cũng tự tay cho ăn. Joóc hình
dung mình là một con trống tơ và bác Mingô là một con thuộc loại lão
tướng.
Ít nhất mỗi ngày một lần, khi mexừ Liơ phi ngựa xuôi theo con đường
cát vào khu luyện gà, Joóc cố hết sức lấn né, vì nó đã mau chóng cảm thấy
ông chủ đối với nó lạnh nhạt đi biết mấy. Joóc đã nghe thấy cô Malizi bảo
là ông chủ thậm chí không cho phép cả bà chủ đến chỗ nuôi gà của mình,
nhưng bà ta cam đoan rằng đó là việc bà kỵ nhất. Ông chủ và bác Mingô
thường đi quanh kiểm tra các chuồng gà, bao giờ bác Mingô cũng giữ đúng
cự ly tụt lại sau một bước đủ gần để nghe thấy và trả lời mọi điều ông chủ
nói giữa những tiếng quang quác của bầy gà mồi hoảng sợ. Joóc nhận thấy
ông chủ nói năng gần như thân ái với bác Mingô, trái ngược hẳn với cung
cách cộc cằn và lạnh lùng của ông ta đối với bác Pompi, cô Xerơ và mẹ nó,
vốn chỉ là đám lao công làm đồng. Thi thoảng, khi cuộc đi tua kiểm tra đưa
họ tới khá gần chỗ Joóc đang làm, nó thường nghe hóng được những điều
họ nói: "Mingô này, tôi định mùa này đưa ba mươi con ra chọi, cho nên ta
phải mang từ bãi thả về nhập chuồng khoảng sáu mươi con hay hơn nữa",
một hôm ông chủ nói vậy.