"Ôi, lạy Chúa ôi!" bà cụ rên rẩm, mặt rúm ró vì đau. "Chúa Jêxu lòng
lành! Ôi, Thượng đế, đừng!" mí mắt bà cụ chấp chới và khép lại.
"Bà!" Airin hét lên, quàng lấy hai vai mẹ chồng. "Bà!" Airin ghé tai
vào ngực bà già và lắng nghe, tim hãy còn thoi thóp. Nhưng hai ngày sau
thì nó ngừng hẳn.
Cụ Joóc-Gà không khóc. Nhưng có một cái gì đến tan nát lòng trong
cái vẻ ngây như đá, trong đôi mắt như chết rồi của cụ. Từ hôm ấy, không
còn ai thấy cụ mỉm cười hay nói một lời lịch sự với người nào. Cụ với cụ
bà Matilđa có vẻ như chưa bao giờ gần gũi nhau thật sự - nhưng khi cụ bà
chết thì nhiệt tình của cụ ông cũng chết theo. Và cụ bắt đầu khô héo, quắt
queo lại, gần như qua một đêm, sáng dậy đã già khụ - không phải trở nên
yếu và lẫn cẫn, mà đâm ra khó tính và chấp nhặt. Không chịu ở thêm ngày
nào trong căn nhà mà cụ đã từng chung sống với cụ bà Matilđa, cụ bắt đầu
đi ngủ đậu ở nhà các con, hết nhà này sang nhà khác, kỳ đến khi cả hai bên
đều phát ớn, thì ông lão Joóc-Gà tóc bạc lại chuyển chỗ. Khi nào không ca
cẩm, cụ thường ngồi ở cổng, trong chiếc ghế xích đu mà cụ vẫn mang theo
và giương mắt dữ tợn nhìn ra ngoài đồng hàng giờ liền.
Cụ vừa tròn tám mươi ba tuổi - cụ đã lạu bạu từ chối không đụng tí
nào đến chiếc bánh sinh nhật con cháu làm mừng cụ. Một buổi cuối đông
năm 1880, cụ ngồi trước lò sưởi nhà cô cháu gái lớn nhất Meriơ Jêin. Cô đã
dặn cụ ngồi yên, cho cái chân đau nghỉ, trong khi cô chạy ù ra mang bữa
trưa cho chồng ở cánh đồng bên cạnh. Khi cô trở về thật nhanh, cô thấy cụ
nằm trên nền trước lò sưởi, nơi cụ đã lết đến sau khi ngã vào đống lửa.
Những tiếng kêu thất thanh của Meriơ Jêin khiến chồng cô chạy vội về.
Chiếc mũ quả dưa, chiếc khăn quàng và chiếc áo nịt vẫn âm ỉ, cụ Joóc-Gà
bị bỏng kinh khủng từ đầu đến thắt lưng. Đêm khuya hôm ấy cụ qua đời.
Gần như tất cả những người da đen ở Henninh dự đám tang cụ, trong
đó hàng tá là con cái, cháu chắt đứng bên cạnh huyệt trong khi cụ được hạ
xuống trong lòng đất, ngay cạnh cụ bà Matilđa, ông con trai Joóc-con ghé