vàng như sáp của Kornilôv và hôn lên trán viên tổng tư lệnh. Hai sĩ
quan đỡ ông ta đứng dậy. Một người thứ ba hỏi, giọng xúc động:
- Thưa các vị, ai sẽ lĩnh quyền chỉ huy?
- Tôi, dĩ nhiên là tôi sẽ nhận quyền chỉ huy,
- Đênikin nói, giọng nấc lên rất cao. - Trước đây Navr Ghêorghiêvits
đã có chỉ thị như vậy, và mới hôm qua đây ngài đã nói việc ấy với tôi...
Ngay đêm hôm ấy tất cả các đơn vị của Quân đoàn tình nguyện đều
lặng lẽ rời vị trí, và bộ binh, kỵ binh, xe tải, xe kéo pháo và xe chở các
chính khách đều rút về phương bắc, về phía khu trại Gnatsban, chở theo
hai thi hài của Kornilôv và Nêjentxev.
Chiến dịch Kornilôv đã thất bại. Những thủ lĩnh chủ yếu và một nửa
số quân tham gia chiến dịch đã thiệt mạng. Có thể tưởng chừng như
người viết sử đời sau chỉ cần nhắc mấy câu đến sự kiện này là đủ.
Thật ra "chiến dịch băng giá" của Kornilôv có một ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Trong chiến dịch này, lần đầu tiên bạch quân đã có một
ngôn ngữ riêng, một truyền thuyết riêng, một hệ thuật ngữ quân sự
riêng, - tất cả, cho chí tấm huân chương bạch vệ mới đặt ra: đó là hình
một thanh kiếm và một chiếc mũ miện bằng cành gai1 đính lên dải
huân chương Ghêorghi.
Về sau, trong những cuộc tuyển mộ và động viên, vào những lúc
phải phân trần phiền toái với những người ngoại quốc hoặc có chuyện
lôi thôi với dân địa phương, họ đều đưa cái vòng gai của kẻ tuẫn đạo ra
như một luận cứ đầu tiên và tối cao. Đã đưa cái biểu trưng ấy thì không
còn biết lấy gì bác lại nữa: chẳng hạn, nếu một ông tướng nào đấy ra
lệnh dùng que thông nòng đánh chết cả một huyện (bấy giờ người ta
nói tắt là "thông một huyện") thì có làm sao? Người đã làm việc đó là
những bậc tuẫn đạo, những người thừa kế của các thánh tuẫn đạo.
Những người như thế không thể đưa ra xét xử bằng những quy phạm
thông thường.