chính trị. Bây giờ chị mặc một bộ quân phục hồng quân sạch sẽ gọn
gàng, chỉ có điều chị nhất định không chịu cắt mái tóc quăn rất đẹp của
chị đi. Sau khi đã được chứng kiến bấy nhiêu thống khổ và chết chóc,
trong đợt thử thách dữ dội vừa rồi chị đã vượt qua được nỗi đau thương
tưởng chừng như không bao giờ nguôi được, như thể vượt qua một chỗ
lội sâu gần lút đầu. Những nếp nhăn đã bị xóa hẳn trên gương mặt chị,
nay trông chị trẻ và rắn rỏi hẳn ra. Những bữa ăn tươm tất của hậu
phương đã đắp đầy đôi má của chị, thân hình chị vươn thẳng lên, dáng
đi của chị trở nên nhẹ nhàng. Cả con người chị thanh thoát hẳn lên.
Đêm đêm, khi các thủy thủ đã ngáy như sấm trong ngôi nhà đốt lò sưởi
ấm áp, chị rón rén đi lấy áo quần của họ ra giặt giũ hay vá mạng. Có
nhiều bận chị mê mải làm cho đến khi tiếng tù và báo thức róng rả vang
lên trong ánh bình minh màu xám.
Kuzma Kuzmits Nêfêđôv cũng ở lại trung đoàn với tư cách một nhân
viên văn thư ngoài biên chế. Trong những ngày gian khổ nhất - ngày
mười sáu và mười bảy -, ông ta đã tỏ ra không những gan dạ mà còn
liều lĩnh nữa trong khi đi nhặt thương binh trên hỏa tuyến, mọi người
đã được thấy rõ điều đó. Về sau ông ta cũng tỏ ra không thua kém ai
khi tàn quân của trung đoàn Katsalinxki chuyển sang phản công cũng
như khi trung đoàn vượt sông Đôn rồi được thay thế và đưa về hậu
phương.
Có một lần Ivan Gora gặp ông ta bên bếp dã chiến - ướt như chuột
lột, áo quần lấm bẩn bê bết, người hốc hác, tiều tụy nhưng phấn khởi
liền vẫy ngón tay gọi ông ta lại:
- Nêfêđôv ạ, tôi biết xử trí, với bác như thế nào đây?... Tôi không sao
hiểu nổi bác là thứ người gì... Bác là một ông linh mục phá giới, tuổi
cũng đã khá cao, sao bác sứ lẽo đẽo đi theo chúng tôi làm gì?
Kuzma Kuzmits khịt mũi một cái, vì mưa cứ hắt từng giọt lên cái
mũi đã tróc da nham nhở của ông ta, và đôi mắt màu hung vui vẻ đưa
lên nhìn người chính ủy: