khắc nghiệt, chúng cũng hồi phục sự cân bằng và nuôi sống các
chimera và các mục đích hèn hạ trong không trung mở, cùng mọi hơi
thở gớm ghiếc tỏa ra. Bởi vì mọi luồng gió từ các đôi cánh tội lỗi, và
với mọi sức mạnh bè phái của những kẻ sống nhờ máu thế gian, nên
một thiên thần phi thường được hạ sinh. Rồi tôi thấy một thiên thần
đang bay trên mái nhà mình trong giấc ngủ ngày thứ ba của ba. Nó đi
ngang, gió lặng đi, cây cối kêu răng rắc trong rừng, vào buổi sáng
mưa ngừng rơi, nước lũ bị nhấn chìm một cách khó hiểu vào bí mật
của mặt đất thấm. Mẹ xuôi ngược con đường bán dạo, bán rẻ mọi đồ
tạp hóa và cứ kiếm những tờ tiền trôi lềnh bềnh trên dòng nước lóa
mắt, và hình như không trung đã được sáng sủa. Nhưng sáng đó, tôi
thấy các dấu hiệu đầu tiên, đó không phải những dấu hiệu về một mùa
mới bình lặng, nhưng là của một chu trình đang đến hồi kết. Đám ăn
mày, những kẻ vẫn tượng trưng cho dấu hiệu đầu tiên bằng sự mong
đợi của họ, những kẻ mang vẻ mặt của người đang đợi lời hứa về
ngày sinh của Đấng Cứu thế đang chờ một điềm báo để biết rằng giờ
khởi hành của mình đã tới.
Cả mấy buổi sáng, trong lúc mẹ chuẩn bị đồ ăn, thì cơn sốt về đại hội
và những lời xì xào về lệnh giới nghiêm lâu dài được thu thập. Sau
đó, vào một buổi chiều, dưới phép thuật của nhang và lời cầu nguyện
cùng khói nhang muỗi, dưới mấy lỗ dột của mái nhà, với vô số rệp
trên sàn và với căn phòng bị đám ngài xanh lục xâm lấn, đến nỗi hiểu
được các đặc tính chuyển đổi của lửa và dâng chính bản thân chúng
như nạn nhân cúng tế tình nguyện, thì ba thình lình tỉnh lại. Ông thức
tỉnh đầy mạnh mẽ, trỗi dậy từ cái chết. Các vết thương của ông đã
lành, tinh thần ông sắc bén, nỗi tuyệt vọng của ông sâu kín hơn, ông
là một người bự con hơn cùng cơn điên to lớn hơn. Ông dậy, đến ghế
ngồi. Và trong khi các cây nến chao đảo và sáng hơn với không khí,
khi mà giấc ngủ của ông không còn tước đoạt chúng nữa, thì ba với
giọng nói buồn trầm khác hẳn, bắt đầu kể với chúng tôi. Ông nói như
thể ông vừa mới đi xa, như ông đã không thực hiện các chuyến đi