3- Thành tựu đích thực và nguy cơ tụt hậu
Những con số thống kê về tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những
năm gần đây được báo chí trong nước đưa tin với những lời lẽ trang
trọng. “Trong tình hình thế giới có nhiều bất ổn, kinh tế Việt Nam vẫn
đạt mức tăng trưởng 7,7%/năm…” Cùng với lời tán tụng của một vài
tổ chức, cá nhân người nước ngoài khiến dân chúng không khỏi nức
lòng.
Kinh tế tăng trưởng cao ai cũng mừng, khi tỷ lệ tăng trưởng chung của toàn
cầu chỉ đạt vài ba phần trăm thì Việt Nam đạt tốc độ 7,7%, có người cao
hứng còn cho rằng, Việt Nam có thể “thành hổ thành rồng” nay mai. Tuy
nhiên, muốn “hoá rồng”, nếu chỉ kỳ vọng thôi thì chưa đủ. Chúng ta đã
từng phải trả giá cho sự lạc quan quá mức, thời điểm này cũng không phải
là một ngoại lệ. Vậy thực chất vấn đề này thế nào, chúng ta có thể hoá rồng
trong một tương lai gần? đâu là chìa khoá để Việt Nam đạt được kỳ vọng
này?
Trong phiên họp thường kỳ của Chính phủ vào tháng 12/2004 tại TP
Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phan Văn Khải nhận định: “Năm 2004 mặc
dù phải đương đầu với nhiều khó khăn lớn… nhưng nền kinh tế của nước
ta vẫn duy trì được mức tăng trưởng khá cao, với xu thế quý sau cao hơn
quý trước. Tốc độ tăng trưởng của các ngành đều tăng khá và vượt kế
hoạch đề ra… Tính chung cả năm 2004, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP)
đạt gần 7,7%...”
Để ý kỹ hơn, với GDP năm 2003 ước đạt hơn 40 tỷ USD, trong đó chúng ta
có lợi thế từ ngoại lực rất lớn, nguồn thu từ kiều hối khoảng 3,8 tỷ USD
chiếm 7,7%. Như vậy, chúng ta đã đạt được thành tích tăng trưởng GDP
khoảng 7,7%, nhỉnh hơn một chút nguồn lực tiếp sức từ bên ngoài. Đó là
chưa kể đến nguồn thu từ xuất khẩu dầu thô khoảng 5,2 tỷ USD/năm với
mức lợi nhuận cỡ vài tỷ USD/năm. Nếu so với Đài Loan, Hồng Kông, Hàn
Quốc và Singapore trong những năm 60 đã liên tục duy trì tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế trên 10%, cá biệt có năm tăng trưởng tới hơn 15%
mà không trông chờ vào những nguồn lợi trời cho, cũng không trông chờ