theo lối cuồng thảo, nét chữ rất độc đáo.Bạch Phác thấy gã ngắm bức hoạ
đến thất thần, bèn hỏi: “Em cũng thích tranh chữ?”
“À… không.” Văn Tĩnh đỏ mặt: “Tôi chỉ cảm thấy bức tranh này rất đặc
biệt, tranh và chữ bộc lộ khá mạnh tâm tư của người vẽ.”
Bạch Phác ngạc nhiên: “Em nói thử xem!”
Văn Tĩnh nói: “Bức hoạ tuy chỉ trình bày trên ba thước, nhưng cảnh vật và
con người trong tranh tựa như trải trên giấy lụa dài tới muôn trượng. Nói
cách khác, người vẽ có sẵn khí độ và bản lĩnh để phóng tay trên một phạm
vi rất rộng, nhưng khi đặt bút lại phải giới hạn trong khuôn khổ một tờ giấy
xuyến nhỏ. Nét bút toát lên khí phách bất phàm khó tả, tràn ra ngoài bức
tranh, như muốn xé rách tất cả con người và cảnh vật, bộc lộ khí thế cuồng
dã mạnh mẽ lạ thường, tâm cảnh của người vẽ rất hợp với câu thơ Cổ lai
đại tài nan vi dụng11 của Đỗ Công Bộ.”
“Ồ.” Bạch Phác gật gù: “Thực không dám giấu, bức hoạ đó là của thầy ta,
dạo xưa người đi qua vùng này, nhân hứng mà vung bút vẽ.”
“Á, lệnh sư thật tài giỏi. Có điều, tôi cảm thấy bức hoạ không những cuồng
dã, mà còn hàm chứa một nỗi bi thương rất khó tả…”
“Bi thương?”
“Ừm, lạ thực! Thoáng nhìn thì thật tuyệt diệu, nhưng nhìn kỹ thì thấy chỗ
nào cũng có mâu thuẫn, năm bè bảy bối, hoa và cỏ, núi và nước, nước và
người, người và chữ, không chỗ nào hoà hợp cả. Khi vẽ bức tranh này, lệnh
sư hẳn rất buồn bã, trái tim tan nát.”
“Thầy ta quả đúng là luôn làm những việc khiến người khác khó hiểu.”
Bạch Phác lộ vẻ ngạc nhiên, “Nhưng ta tận mắt quan sát sư phụ vẽ, mà
không nhận ra những điều như em vừa mô tả, em nắm bắt được cái người
khác không nhìn thấy, thực là cao minh.”
“Đâu có, đâu có.” Văn Tĩnh toét miệng cười.
“Thằng lỏi con chỉ giỏi ba hoa chích choè.” Một giọng nói bỗng vang lên
bên ngoài quán trọ: “Trả cho mi cái này đây.” Một vệt sáng trắng bắn vào
vùn vụt, lao thẳng đến mặt Văn Tĩnh. Lương Thiên Đức vội giơ tay bắt lấy,
ai ngờ nó bỗng nhanh hẳn lên. Lão chộp hụt. Phắp một tiếng, vệt sáng đánh
thẳng vào mặt Văn Tĩnh.