nghĩa như sau:
Ôi, nguy hiểm thay, cao thay! Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh. Các
vua Tàm Tùng và Ngư Phù ở chốn xa xôi biết bao! Từ đó đến nay, đã bốn
vạn tám nghìn năm, mới thông suốt với chỗ có khói người ở ải Tần.
Phía tây là núi Thái Bạch có đường chim bay, có thể vắt ngang đến tận đỉnh
núi Nga Mi. Đất lở, núi sập, tráng sĩ chết, rồi mới có thang trời, đường đá
móc nối liền nhau. Phía trên có ngọn cao sáu rồng lượn quanh mặt trời.
Phía dưới có dòng sông uốn khúc sóng xô rẽ ngược. Hạc vàng còn không
bay qua được; vượn khỉ muốn vượt qua, cũng buồn khi vin tới, leo trèo.
(Bản dịch của Trần Trọng San)
13941395 Giống kiểu bàn ăn ngày nay, mặt trơn, bốn chân, ốp bàn có chạm
trổ rất đẹp
13981399 Hiện là thành phố Hợp Xuyên tỉnh Trùng Khánh
14021403 Năm Thiệu Hi thứ 3 (1192), Lục Du làm hai bài [font="ms
mincho,
ms 明朝, monospace"]秋夜將曉出将晓出籬門迎涼有感 (Cảm
xúc đêm thu mát giời ra giậu đón gió) (?). Nội dung bộc lộ nỗi nhớ một dải
non sông đã bị người Kim chiếm cứ và sự bất mãn đối với tập đoàn thống
trị vô dụng nhà Tống. Hai câu này trích từ bài thứ 2, nguyên văn như sau:
[font="ms mincho,
ms 明朝, monospace"]三萬里河東入海,五千仞岳
上摩天。Tam vạn lí hà đông nhập hải, Ngũ thiên nhẫn nhạc thượng ma
thiên
[font="ms mincho,
ms 明朝, monospace"]遺民淚盡胡塵里,南望王師
又一年。Di dân lệ tận Hồ trần lí, Nam vọng vương sư hựu nhất niên
Nghĩa: Hoàng Hà dằng dặc chảy về biển đông, Tây Nhạc sừng sững vươn
cao tận trời
Di dân khóc cạn nước mắt trong gió bụi người Hồ, Lại thêm một năm nữa
ngóng đợi quân đội hoàng gia ở phương nam.
14441445 Kiểu như Tam cung lục viện, ngụ ý chỉ sự ăn chơi phè phỡn.
14481449 Tức Nguyên Hiến Tông (1208-1259)
14521453 Chỉ người kể chuyện trong những quán trà ngày xưa
14561457 Họ Ngu tên Doãn Văn, tên chữ là Bàn Phủ, có tài thơ phú, giữ
chức Thừa tướng dưới đời Tống Hiếu Tông