C
1
hàng mèo Gaspard Mac Kitycat, bạn chí cốt của Thomas, một
hôm bỗng tự dưng biết nói. Chuyện đến tự nhiên như không.
Gaspard mang dòng máu Scotland thừa hưởng từ bố, một
danh miêu tiếng nổi như cồn trong loài Mèo Xanh của Anh,
còn ở Pháp thì được gọi là mèo sác-trơ, thế nhưng màu lông
lại xám xịt chứ không như cái tên. Tristram Mac Kittycat, tức công
tước thứ mười ba của dòng họ Garth (một dòng họ lâu đời xứ Ê-cốt),
ngay từ cái nhìn đầu tiên đã phải lòng một nàng mèo Pháp màu xám
cũng dòng sác-trơ quyến rũ bậc nhất thiên hạ tên là Mouflette de
Vaneau, nam tước Flon. (Nàng là hậu duệ của ngài Flonflon lừng
danh đã tham gia chuyến tàu chở quân trang phục vụ Đại Quân. Vị
tướng mèo này được Napoléon Đệ nhất đích thân phong tước nam
tước trên chiến trường Austerlitz. Vinh dự này tưởng thưởng việc
ngài đã có công giúp thống chế Murat diệt trừ lũ chuột đã dám to
gan ra răng nghiến ngấu cả toa yến mạch của quân đội.) Cuộc hôn
nhân mỹ mãn của công tước Tristram xứ Scotland và nữ nam tước
Flon lần lượt cho ra đời bốn nhóc mèo nhà nòi. Gaspard Mac
Kitycat, kẻ được định sẵn sau này sẽ kế tục cương vị Công tước thứ
mười bốn dòng họ Garth, là anh cả. Người thân gọi cậu là Gaspard.
Gaspard là một chú mèo can trường có bộ lông màu xám sac-trơ đặc
trưng. Những kẻ ngù ngờ vẫn hay bảo: “Đó là một con mèo xám lông
chuột”, dù rằng thật thiếu văn hóa mới đi so sánh một chú mèo với
một con chuột.
Gaspard mê tít trò vờn nhay-rí rách-nhấm nháp đám cỏ mọc
cuối vườn.
Một buổi sớm giống như bao buổi khác, Gaspard ngồi ăn sáng
với Thomas. Khi Thomas đi học, Gaspard còn tiễn cậu chủ nhỏ ra tận