gần gũi nhất của nhân vật chính đã. Ta phải tả lại lúc anh ta ra đời, tập đi, suy
nghĩ và tập nói; ta phải tả anh ta đấu tranh để sống còn ra sao; tả các nỗi vui,
buồn, những thành công và thất bại của anh ta. Muốn làm thế thì phải thú
nhận rằng ta vấp ngay vào những khó khăn rất lớn.
Làm thế nào để hình dung được hình dáng “bà” của anh ta là con vượn
thủy tổ loài người, ngày nay không còn sống ở trên trái đất nữa? Một bức
chân dung của nó cũng không còn, vì rằng loài khỉ không biết vẽ. Chỉ ở trong
các viện bảo tàng ta mới còn thấy những di tích của người-vượn đó. Mà ngay
ở trong bảo tàng cũng không thấy được toàn bộ hình dáng của người-vượn, vì
thực ra người ta chỉ lượm được một ít mảnh xương và những cái răng của
người-vượn, đào được ở rải rác khắp châu Á, châu Phi và châu Âu.
Tốt nhất nên lưu ý đến những người thân thích khác của nhân vật. Đó là
những “người anh, người chị họ” của nhân vật.
Đến thời đại con người nguyên thủy rời bỏ từ lâu khu rừng nhiệt đới và
đã biết đứng thẳng lên mà đi, thì những giống vật cùng họ hàng với người
nguyên thủy là đười ươi, khỉ, vượn vẫn tiếp tục sống cuộc sống dã man trong
rừng. Con người không phải lúc nào cũng muốn nhớ lại “những người thân
thích tội nghiệp đó” của mình. Có người còn lấy làm phẫn nộ, coi như bị sỉ
nhục khi thấy nhắc đến sự thật là người và loài khỉ cùng có một tổ tiên.
Ở Mỹ, một lần có một người đã phải đưa ra tòa. Đó là một giáo viên trung
học. Anh đã bị quan tòa kết án về tội đã quả quyết rằng tổ tiên của loài người
là từ loài khỉ mà ra. Trong căn phòng xử án hôm đó, người đến xem rất đông.
Có cả những vị tai to mặt lớn, trên cánh tay đeo những băng có ghi: “Chúng
tao không phải là khỉ! Và chúng tao không bao giờ cho phép biến mình thành
khỉ!”
Người thầy giáo tội nghiệp nọ, cố nhiên, không dự định biến những con
lừa đó thành khỉ, đã bị một “trận mưa lên án” đổ lên đầu anh ta. Khi trả lời
những câu hỏi đe dọa của quan tòa, người giáo viên chắc đã nghĩ bụng: “Có
lẽ bọn quan tòa này điên cả rồi chăng? Thế thì cũng có thể bị lên án vì một
bản cửu chương!”