Nhưng không phải ngài Công tước Hastings. Mặc dù vợ ngài đã mang
thai năm lần trong suốt 15 năm hôn nhân của họ, chỉ hai lần bà hạ sinh, và
cả hai lần con ngài đều chết yểu ngay khi mới chào đời. Sau lần mang thai
thứ năm, kết thúc bằng việc sẩy thai vào tháng thứ năm của thai kỳ, các bác
sĩ đều cảnh báo họ không nên thử thêm một lần có con nào khác. Mạng
sống của nữ Công tước đã ở trong tình trạng nguy hiểm. Bà quá yếu, quá
mỏng manh, và có thể, họ nhẹ nhàng nói, quá lớn tuổi rồi. Ngài Công tước
chỉ đơn giản cố gắng chấp nhận thực tế, rằng tước vị sẽ không còn liên quan
đến dòng họ Basset nữa.
Nhưng nữ Công tước, Chúa phù hộ cho bà, biết rõ vai trò của mình, sau
sáu tháng hồi phục, đã mở cánh cửa thông giữa phòng ngủ của họ, và ngài
Công tước lại tiếp tục yêu cầu có một đứa con trai.
Năm tháng sau, nữ Công tước thông báo cho ngài biết, bà đã có mang.
Tâm trạng của ngài Công tước lập tức phấn chấn hẳn lên, bằng một niềm tin
không gì lay chuyển được – chắc chắn là không gì lay chuyển được – rằng
lần mang thai này sẽ thành công. Nữ Công tước đang nằm trên giường
trong giây phút bà nhận ra mình đã trễ tháng. Các bác sĩ đến khám cho bà
mỗi ngày, và trong suốt thời kỳ mang thai ấy, ngài Công tước đã mời vị bác
sĩ được nể trọng nhất ở London, trả cho ông ta một khoản hậu hĩnh để ông
tạm thời rời khỏi phòng mạch của mình, đến sống ở lâu đài Clyvedon.
Ngài Công tước không còn cơ hội nào khác ngoài lần này. Ngài phải có
một đứa con trai, và tước vị sẽ vẫn ở trong tay của dòng họ Basset.
Kinh nghiệm về những cơn đau của nữ Công tước đến sớm hơn một
tháng, những tấm đệm được lót dưới hông bà. Trọng lực sẽ giúp đứa bé bên
trong, bác sĩ Stubbs giải thích. Ngài Công tước nghĩ đó là một lập luận có
cơ sở, và, vị bác sĩ rời đi vào buổi chiều, sau khi đặt những tấm đệm khác
cho vợ ngài, giúp bà nằm theo một góc nghiêng hai mươi độ. Bà đã nằm
trong tư thế ấy suốt một tháng.