những công nghệ tiên tiến nhất, và đôi khi chính phủ có thể giúp họ
thu được lợi nhuận, trong khi vẫn bảo đảm yêu cầu giảm ô nhiễm.
Ví dụ, vào năm 1991, Cục Bảo vệ Môi trường (EPA) thực hiện
chương trình “Ánh sáng xanh”, vốn được thiết kế để tăng hiệu
năng sử dụng năng lượng - một mục tiêu vừa mang lại lợi nhuận, vừa
rất có lợi cho môi trường. Thế là EPA tiến hành ký kết thỏa thuận
với cả các tổ chức vì lợi nhuận và phi lợi nhuận (trong đó có các bệnh
viện và trường đại học). Thông qua các thỏa thuận này, các công ty
cam kết thực hiện những cải tiến về hệ thống chiếu sáng tiết
kiệm điện. Năm 1992, EPA tiến hành một chương trình khác có tên
gọi Sản phẩm Văn phòng Tiết kiệm Năng lượng nhằm khuyến
khích sử dụng năng lượng hiệu quả hơn, tập trung vào máy in, máy
photocopy, máy vi tính và các thiết bị sử dụng điện khác. EPA đặt ra
những tiêu chuẩn tiết kiệm năng lượng và cho phép các công ty đạt
chuẩn được sử dụng logo “Ngôi sao Năng lượng” của EPA. Ngoài ra,
EPA còn tôn vinh các công ty thực hiện tốt chương trình bằng cách
khen ngợi họ trên các phương tiện truyền thông đại chúng, kèm theo
những phần thưởng hay huy chương ghi nhận thành tích của họ.
Một trong những mục tiêu của EPA là làm cho mọi người thấy
rằng việc sử dụng hiệu quả năng lượng không chỉ tốt cho môi
trường, mà còn giúp cả xã hội tiết kiệm. Nhưng nhìn từ khía cạnh lý
thuyết kinh tế chuẩn, những khoản tiết kiệm như thế không nên
được dự đoán. Đây là lý do: Nếu các công ty thực sự có thể tiết kiệm
được tiền trong khi bảo vệ môi trường thì họ không cần chính phủ
giúp họ cắt giảm chi phí. Chính áp lực cạnh tranh làm cho các công
ty không cắt giảm chi phí sớm bị mất thêm tiền, và bị loại ra khỏi
thị trường.
Tuy nhiên, trên thực tế, mọi việc không phải lúc nào cũng diễn ra
đúng như thế. Các nhà quản lý công ty thường rất bận rộn và không
thể bao quát tất cả mọi thứ. Để thực hiện một thay đổi, trước hết họ