lao động phải trả tiền để được phép đi thu hái những thứ đó và phải trả cho
chủ đất một phần những sản phẩm họ trồng hoặc thu hái được. Phần phải
nộp cho chủ đất hay nơi đúng ra cái giá của phần phải nộp đó chính là tiền
thuê ruộng đất, tiền nộp tô cho chủ đất và trong giá của phần lớn hàng hóa,
nó là cấu phần thứ ba.
Giá trị thực tế của tất cả các bộ phận cấu thành của giá cả được đo
bằng lượng lao động mà mỗi thành phần đó có thể mua được. Lao động do
giá trị không chỉ của phần giá thuộc về lao động mà cả phần giá quy về cho
đất (địa tô) và cả phần giá thuộc lợi nhuận nữa.
Ví dụ, trong giá ngũ cốc, một phần dùng để trả địa tô cho chủ đất, một
phần khác trả tiền lương hoặc tiền nuôi sống người lao động và súc vật
được sử dụng để sản xuất ra ngũ cốc và phần thứ ba là lợi nhuận của chủ
trại. Cả ba phần này hình như hoặc ngay tức khắc hoặc cuối cùng sẽ cấu
thành giá của ngũ cốc.
Một cấu phần thứ tư cũng rất cần thiết để dần dần hoàn lại số vốn mà
người chủ trại bỏ ra hay đền bù cho sự hao mòn sức kéo và các công cụ
khác của nghề nông. Nhưng cũng phải xem xét là ngay giá của mỗi nông
cụ, như con ngựa để kéo chẳng hạn cũng tự nó bao gồm ba cấu phần giống
như đã nói ở trên đó là tiền thuê đất để chăn dắt ngựa; công lao động để
chăn ngựa và tiền lợi nhuận của chủ trại mà đã ứng trước tiền thuê đất và
sức lao động để chăn dắt ngựa. Mặc dù giá của ngũ cốc có thể tính đến giá
cũng như tiền nuôi con ngựa, nhưng toàn giá đó vẫn chia làm ba bộ phận
cấu thành: tiền thuê đất, công lao động và lợi nhuận.
Trong giá bán bột mì, còn phải tính thêm vào giá ngũ cốc tiền lời của
người chủ cối xay bột và tiền lương của những người phục vụ vào công
việc này. Trong giá bánh mì cũng phải tính thêm lợi nhuận của chủ lò bánh
và tiền lương của những người phục vụ và trong giá bán của bột mì hay
bánh mì cũng cần phải tính đến tiền chuyên chở lúa mì từ nhà của chủ trại
đến nhà của chủ cối xay và từ nhà của chủ cối xay đến nhà của chủ lò bánh
mì cùng với số tiền lời cho những người đã ứng trước tiền vốn để trả tiền
công lao động đó.