làm thaí-tử, đang nhỏ, bà trưởng công-chúa muốn gả con là A Kiều cho đế,
bèn chỉ A Kiều mà hỏi đế rằng có muốn A Kiều làm vợ chăng ? Và hỏi
Kiều có đẹp chăng ? Đế đáp rằng nếu được A Kiều sẽ đúc cái nhà bằng
vàng cho ở.
Nay dùng điển nhà vàng ví sắc đẹp tuyệt thế. Hoặc nhữ bà Phi Hậu có sắc
đẹp.
trăng già: bởi chữ nguyệt lão
tơ mành: là sợi dây rất nhỏ, dễ đứt không bềnv.v...
phòng động: tức động phòng, nơi buồng kín dùng bày lễ hợp-cẩn khi vợ
chồng mới cưới về.
Chòm hoa tịnh-đế: tịnh là đôi, đế là cái đế hoa, hai hoa cùng nở trên một
đế, như sen một cọng nở hai hoa, hoa cúc, hoa lài một cọng nở hoa sinh đôi
là điềm lành của sự vợ chồng đôi lứa.
Hai ngọn đèn thắp cúng khi đầu lễ thành hôn, gọi là hoa-chúc (đuốc hoa) ví
như đôi hoa tinh-đế ( chòm hoa tịnh-đế, một chòm nở hai hoa).
Thơ nàng Tiểu Thanh đời Thanh có câu :
Nguyện tương nhất trích dương chi thủy,
hóa tác nhân-gian tịnh đế liên :
Nguyền xin Phật Quan-âm cho một giọt nước nhiệm màu ở cành dương
liễu để hóa thân nàng thành đôi hoa sen Tịnh-Đế ở chốn nhân gian.
Tiểu-thanh là một tài nữ bị làm vợ lẽ, bị vợ cả ghen giam chết khi 18 tuổi.
Câu thơ này là khi nàng lễ Phật Quan-âm xin hóa kiếp làm sen tịnh-đế, ý
nói làm một vợ một chồng.
Bõ: là những hoạn-quan thái-giám chầu-hầu vua. Đời xưa những đàn-ông
lại-cái chọn vào chầu hầu nơi cung-cấm gọi là hoạn quan, là Phụ, Tự và
Thái-giám. Nước ta gọi là Bõ là ông Giám.
ngự: là sự thống-trị thiên-hạ của nhà vua như Ngự-quốc, những hành-động
của vua đều gọi là Ngự..Các quan gọi vua là ngài ngự.
đồng-hồ: là một khí-dụng ngày xưa dùng để đo thì gìờ tuy kiểu làm khác
nhau, nhưng chẳng ngoại một cái bầu đựng nước dưới đáy xoi lỗ nhỏ cho
nước chảy, trong bầu để đo thì giờ theo giọt nước chảy cạn lần đến mỗi dấu
gạch làm một giờ- bên bầu có cái giá cắm thẻ, để hết một giờ ghi một thẻ.