nhị trả phá cô-muộn.
Tam trản... Uống một chén thì cổ và họng thấm và nhuần, uống hai chén thì
sự buồn quạnh-quẽ phá tan. Chén thứ ba...
Đây vì không phá nỗi buồn cô-quạnh được nên chén thứ hai không uống (
Chè chuyên nước nhất ).
Hương dồn khói đôi. Hương, ngày xưa dùng các thứ hương như: Trầm
hương- Bài-hương - Tốc-hương - Kê cốt trầm hương - Bạch-đàn nhủ hương
v.v... gọi là bách hoa hương tán nhỏ hoà với nước mía cất trong vịm sành,
múc từng muỗng bạc nhỏ đốt trên cái giá đồng trong lò, trên viên than hầm,
lò bằng đồng, nắp lò chạm hình con nghê, gọi là Kim nghê hoặc trong lò
bằng đồng đen, chạm hình con vịt nằm khảm cái kim khí đẹp, gọi là Bửu-
áp. Các nhà sang quí thường đốt trong ngày lạnh ở trong phòng ngủ, phòng
khách, Hương đem đốt dồn mãi để mong rước vua, ngỡ vua đến cứ đốt dồn
nhiều lần; nhưng vua vẫn không đến (hương dồn khói đôi).
gang tấc: nghĩa gần vua.
Ngâu: tức Khiên Ngưu. Sao Ngưu sao Nữ, Chức Nữ mỗi năm chỉ gặp nhau
một lần.
Vườn Thượng-uyển: là vườn hoa của vua. Thượng-lâm cũng đồng nghĩa.
Doành Nhâm: Doành bởi chữ doanh là một vùng nước. Nhâm là tên thần
nước. Thơ Hàn Dũ có câu :
Nữ Đinh phu Nhâm truyền thế hôn:
nghĩa là Nữ Đinh là vợ Nhâm đời tương-truyền là vợ chồng.
Lời chú-thích của Đông-Sơn Tiểu Liên rằng, con trai vua Huyền-minh là
Nhâm phu An, con gái họ chúc Dung là Đinh Dương đều là thần ở dưới
nước. Huyền-minh chi tử viết Nhâm phu An, Chúc Dung chi nữ viết Đinh
Dương.
Thơ Tô Thức ( Đông Pha ) : Nhâm công phi không Định Nữ tàng : Nhâm-
công bay trên không Đinh Nữ dấu mình. Thơ ấy vịnh cái suối bay ( cái
thác). Chú nghỉa : Nhâm-công là tên thần ở dưới nước cạn và im (chữ
Nhâm hoặc có lầm chữ giâm là im)
mây-mưa: là gối chăn chung chạ.
cửu-hạn: là nắng hạn lâu ngày Giọt mưa cửu hạn là trời mưa khi đã nắng