chiếu-nệm, lầu-đài, tức như vương ( Cảnh-lăng-vương), có hoa rủi rơi bay
vào rãnh bùn-nhơ như tôi đây vậy. Ý nói người có may rủi khác nhau. Đây
dùng hoa gieo cành bởi nghĩa chữ Phiên-hủ ấy.
cao-lương: là vị ăn ngon lành. Cao là mỡ, lương là gạo thứ ngon. Phong-
lưu là sang trọng đủ sung-sướng.
hoắc-lê: là thứ rau dền, rau nhiếp, ăn ngon, có thể đỡ đói, vị ăn của nhà
nghèo.
hoành-môn: gác ngang cây gỗ, cây tre làm cửa ngõ tầm thường bằng lẽ gỗ,
đoạn tre cũng khá ở yên. Ý nói người ở ẩn.
cò con: bởi chữ âu-lộ, là loài chim cò, chim le-le ở. Sách Liệt-Tử có chữ
Âu-lộ vong cơ : chim âu chim lộ quên cả then máy. Ý nói loài chim ấy tự
do không quan-hệ với việc đời, và có chữ âu-manh làm bạn trao lời hẹn-
ước với chim âu. Đây dùng Cò con bởi nghĩa ấy. Ngoài Bắc cũng nói cò
con là những sự đoàn-tụ nhỏ của người mà có vẻ vui-vầy. Như chơi cò con
là chơi một nhóm người ít mà vui.
oé-ọe: là những giọng hát bội dở, nghe buồn ( giải-kiết điều oé-ọe làm chi)
nghĩa là không cởi ra mang vào những lốt vai tuồng vô ích dở-dang trên
sân-khấu. Ý nói làm cung-phi không xứng lòng thêm vô ích.
bóng thỏ: bóng trăng.
tiêu tao: là xơ-xác đau-thương (võ) kết bạn với một vẻ lẻ-loi chếch-mác.
tâm-hỏa: là lửa lòng, nỗi uất hận như ngọn lửa đốt lòng.
nét liễu: là nét đôi mày vẽ như hình lá liễu-yếu.
hồng-băng thấm ráo: Hồng băng gía đỏ, là nước mắt đỏ. Điển cung-phi là
Tiết linh Vân đời vua Ngụy văn Đế có dung mạo tuyệt vời, ông Thái-thú
quận Thường-sơn là Cốc Tập mua hằng nghìn lạng vàng dâng vua Ngụy
văn Đế. Khi nàng từ-biệt cha mẹ, khóc như mưa, lấy bình ngọc hứng, sau
hóa ra khối băng đỏ (hồng băng).
làn son: là cái vẻ má hồng.
Trà chuyên nước nhất, hương dồn khói đôi: Trà là trà uống, chuyên nước
nhất là pha lần đầu đã thôi uống. Ý nói không có ai cùng uống nên mau
chán. Lô Đồng đời Đường có bài Trà-ca...
Nhất trản hầu vẩn nhuận,