Madrid. Nó là cái giá chính trị cho sự ủng hộ của Ả Rập trong cuộc chiến
chống lại Iraq, nhưng sau đó vị Thủ tướng lỡ lời nói rằng ông sẽ kéo dài
cuộc thương lượng mười năm nếu cần nhưng ông đã thất cử vào năm sau.
Chính Thủ tướng Yitzhak Rabin đã ném dây an toàn cho Arafat. Cuộc
bầu cử của chính phủ đảng Lao động ở Israel năm 1932 đã lót đường cho
hiệp ước Oslo vào năm sau. Sự thỏa thuận yêu cầu một giai đoạn năm năm
tự trị tạm thời và được phỏng theo sát với hiệp ước Trại David năm 1978
giữa Israel và Ai Cập, một lần nữa đã bị người Palestine chửi rủa một cách
chua chát. Thành phần mới chủ yếu để Arafat có thể chấp nhận được là
Israel thừa nhận PLO một cách chính thức như đối tác thương lượng của nó.
Đối với tất cả các năm đấu tranh vũ trang, Palestine có vài, nếu có thể
nói được như thế, anh hùng quân đội theo nghĩa thông thường của từ này.
Lịch sử của họ không là một lịch sử gồm những chiến thắng tự hào, nhưng
là lịch sử gồm những thất bại quả cảm. Không có những Dayan, Rabin, hay
Sharon cho một động thái không thắng trận đánh quy ước hay giải phóng
bất kỳ phần lãnh thể nào của Palestine bằng sức mạnh quân sự.
Bài thánh ca của Palestine, "Quê hương ta, Quê hương ta" được dựa
trên bài hát của Fatah, "Đặc công, Đặc công" Nhưng không có những người
tinh thông quân sự trong số tập thể lãnh đạo của Palestine. Người Palestine
nhìn họ không, như người Israel, là một dân tộc có những chiến binh xuất
sắc, nhưng là dân tộc của những liệt sĩ.
"Hãy nhìn ngắm thân thể của liệt sĩ..." thi sĩ Abdel-Rahim Mahmoud
đã viết trong tiền bán thế kỷ XX:
. . . nằm ườn trên cát, bị kền kền tấn công,
máu họ nhuộm đỏ trái đất,
những làn gió bấc thổi tới mang theo hương thơm.
Vầng trán rạng rỡ của họ phủ cát hình như chỉ tỏa sáng hơn.