Do tác động của cuộc di dân ở nước ngoài, lượng dân tị nạn đổ tới và
việc di dân từ các làng phụ cận, Ramallah đã trở thành một thành phố hỗn
hợp, nhưng vẫn giữ lại được bầu khí thế tục của nó. Nó cung cấp một thánh
điện cho nhiều gia đình trung lưu trốn chạy khỏi Jaffa, Ramla, và Lod, cho
những người tị nạn muốn chứng tỏ là những người Palestine năng động
nhất khi họ đi lang thang khắp thế giới.
Ramallah trở thành nổi tiếng như một thành phố du lịch mùa hè vào
thời Jordan giữ quyền cai trị, một thời đầy những kỷ niệm đẹp. Vào thời
xung đột, nó hiến mình cho nền chính trị dân tộc. Với cuộc chiến bùng nổ
năm 1996, và phong trào Al- Aqsa Intifada, địa danh Ramallah được viết
bằng chữ nổi trong bản danh sách các sự cố đẫm máu. Ý thức chính trị của
nó có lẽ đã được khơi dậy bởi một truyền thống giáo dục. Giáo phái
Quakers đã mở tại đây các trường học và các trung tâm y tế từ rất sớm. Đại
học Bir Zeit (mà người Palestine tự hào mô tả là một Havard của họ) trở
thành đại học hoàn bị đầu tiên của Palestine năm 1975.
Hiệu trưởng của Đại học này, Hanna Nasir, đã bị đày năm 1974 và đã
không trở về trong 19 năm. Đại học thường xuyên bị đóng cửa bởi quân đội
Israel-lần cuối cùng là từ ngày 8 tháng Giêng 1988 cho tới 29 tháng Tư
1992. Khi phong trào Intifada bùng nổ mạnh, việc giảng dạy vẫn tiếp tục
với các lớp học đột xuất được tổ chức tại các văn phòng và các tư gia ở
Ramallah. Bir Zeit cung cấp phần lớn thành phần lãnh đạo trí thức của
Intifada. Các nhà khoa bảng của nó, như Hanan Ashrawi, một giáo sư văn
học Anh, sau này là một nhân vật có tiếng trong đoàn thương thuyết tại
Madrid sau sau đó trong cuộc đàm phán với Israel và Hoa Kỳ.
Nhưng nếu Bir Zeit cung cấp sức thúc đẩy cho cuộc thương thuyết đối
thoại và hòa bình với Israel, nó mau chóng có quan điểm đối lập với phần
lớn những gì diễn ra sau thoả ước Oslo. Các nhà khoa bảng của nó thuộc số
những người chỉ trích mạnh nhất tệ nạn tham nhũng, gia đình trị, các chiến