Đúng lúc đó, chủ nhân của Bữa tiệc Bằng hữu Công giáo, Rosalind Fung,
đứng dậy khỏi bàn tiệc và bước lên sân khấu. Người thấp đậm, giữa độ lục
tuần, tóc uốn quăn thành búp, Rosalind ăn vận kiểu đồng phục theo quy tắc
của bất cứ người phụ nữ thừa kế trung niên nào của một gia tộc giàu có lâu
đời ở Singapore—một chiếc áo choàng hoa cộc tay, có lẽ được mua từ kệ
xả hàng của John Little, chiếc quần lưng chun màu nâu sẫm, và một đôi dép
sandal hở ngón. Từ sân khấu, bà mỉm cười hạnh phúc với bạn bè tụ tập bên
dưới.
“Thưa các chị em, xin được cảm ơn tất cả mọi người đã đến đây đêm nay
để tham gia trong tình hữu hảo với Christ. Xin được cảnh báo nhanh với
mọi người trước khi chúng ta bắt đầu: Nghe nói món laska�* đêm nay cay
đến mức nguy hiểm. Tôi không biết điều gì xảy ra, nhưng ngay cả Mary
Lau, người mà ai cũng biết là món gì cũng phải bỏ thêm ớt vào, đã bảo với
tôi rằng bà ấy buey taban�+ món laska này. Bây giờ, trước khi chúng ta
tiếp tục nuôi dưỡng dạ dày và linh hồn của mình, Đức giám mục See Bei
Sian sẽ bắt đầu chương trình của chúng ta bằng một bài kinh.”
Khi giám mục bắt đầu bài kinh nổi tiếng chán ngắt của mình, những tiếng
ồn kỳ lạ bắt đầu nổi lên từ sau một cánh cửa hông của khán phòng. Nghe cứ
như thể bên ngoài đang diễn ra một cuộc tranh cãi nảy lửa, kéo theo một
loạt những tiếng va đập và loạt soạt nghèn nghẹt. Bỗng nhiên cánh cửa bật
mở tung. “KHÔNG, TÔI ĐÃ BẢO LÀ KHÔNG ĐƯỢC VÀO!” một vị
khách nữ hét lên mạnh mẽ, phá tan sự tĩnh lặng.
Có tiếng chạy dọc khán phòng, tiếng khóc ngắt quãng vang lên giống như
con thú nào đó. Daisy thúc người phụ nữ bàn bên đang đứng dậy để nhìn
được rõ hơn. “Bà nhìn thấy gì không?” - Bà hỏi giọng lo lắng.
“Không biết, lah—trông có vẻ như... một người vô gia cư điên loạn nào
đó.” - Bà kia trả lời.