các toán sẽ không lên. Họ rất giỏi biện hộ khi không làm được việc gì đó".
(
Trainor đã chỉ ra gót chân Asin của hoạt động trên biển. Không có sự lãnh
đạo và yểm trợ chiến đấu của Mỹ, các toán Việt Nam thực hiện nhiệm vụ
tập kích và pháo kích gần bờ một cách miễn cưỡng. Tháng 8-1966, trung tá
Pat Carothers thay Trainor. Carothers hiểu biết sâu sắc về hoạt động biệt
kích và thám báo. Trước khi sang Việt Nam, Carathors cho biết mình "đã có
5 năm kinh nghiệm hoạt động thám báo. Tôi công tác ở lực lượng thám báo
số 1, giữ cương vị trung đội trưởng - sau đó là sĩ quan hành động... tôi là sĩ
quan chỉ huy lực lượng thám báo số hai trong hai năm rưỡi... tôi được cử
đến trung đoàn dù số 1 của quân lê dương Pháp ở Corsica. Đó chính là
trung đoàn bị De Ganlle giải thể hai tháng sau vì nổi loạn ở Algeria. Tôi
cũng công tác một thời gian tại lực lượng biệt kích đổ bộ của hải quân Pháp
ở Toulous".(
)
Với quá khứ như vậy, tân phó chỉ huy trưởng không cần nhiều thời gian để
hiểu được tại sao kết quả của các hoạt động chống mục tiêu ven biển miền
Bắc lại ít ỏi như vậy. Carothers cho rằng "tôi không đổ lỗi cho các toán
hành động... trước khi đến bờ biển, họ biết là điệp vụ sẽ không thành công
và quay trở lại căn cứ. Thuỷ thủ và thuyền trưởng mới là người ra quyết
định”.(
1
) Góp phần vào sự trầm lắng này là việc trong năm 1966, năm chiếc
PTF bị đối phương phá huỷ, làm cho thuyền trưởng và thuỷ thủ càng ngại
ngần về các phi vụ này.
Tháng 3-1966, Bob Terry đến nhận chức sếp trưởng OP37. Phần lớn kinh
nghiệm của ông là hoạt động phá huỷ dưới nước và các đơn vị SEAL. Ông
cho biết "đã tham gia vào một số nhiệm vụ tương tự như hoạt động trên
biển của SOG" nhưng dưới dạng không bí mật. Sự khác biệt duy nhất giữa
công khai và bí mật là ở tính chất có thể phủ nhận được của hoạt động.(
)
Terry đánh giá thấp hoạt động của các toán biệt kích người Việt. "Chúng tôi
đã thử nhiều cách nhưng không thành công. Hoạt động của các toán khả