rằng: "chúng tôi không có quan hệ tốt với đối tác - mối quan hệ, theo tôi là
cực kỳ quan trọng và tôi dành rất nhiều thời gian để củng cố điều đó với tất
cả khả năng của mình và thực sự biến tổ chức của đối tác thành cái bóng
của chúng tôi... Nguyên tắc của tôi là quyết định sẽ do tôi và chỉ huy Việt
Nam cùng đưa ra và tôi buộc anh ta phải chịu trách nhiệm về mọi chuyện
xảy ra trong tổ chức của mình".(
1
)Olson muốn cho CSS cảm giác là họ
được tin cậy. "Trách nhiệm của tôi là đảm bảo mối quan hệ với đối tác".
(
1
)Olson chấp nhận những khía cạnh tiêu cực về an ninh để thực hiện chính
sách của mình.
Vào năm 1968, hoạt động tập kích ven bờ gần như ngừng lại hoàn toàn.
Theo Olson, "đó là công việc khó khăn vì chúng tôi không đưa họ đến đó
được".(
) Ông quyết định xin phép sử dụng họ ở miền Nam. "Những gì
tôi muốn là đưa các toán biệt kích ra thực địa và tìm hiểu họ có năng lực
làm được gì. Qua Singlaub, chúng tôi thu xếp để cử một toán tới đồng bằng
và phối hợp với lực lượng cơ động đường sông, một lực lượng hỗn hợp của
lục quân và hải quân. Một trong những công việc mà trước đó họ chưa từng
làm là đi tiền trạm, tức là đi trinh sát tìm hiểu những gì đang diễn ra. Vì vậy
chúng tôi cho rằng đây là cơ hội để tiến hành huấn luyện thực tế và có thể
giám sát được họ".(
)Theo báo cáo năm 1968 của SOG, "những hoạt
động này rất có giá trị đối với lực lượng cơ động đường biển... cung cấp tin
tình báo cho lực lượng này".(
)
Ngoài hoạt động đường sông, các toán biệt kích được bố trí tại vùng I chiến
thuật để "tiến hành hoạt động thực tế chủ yếu là nhằm vào cơ sở của Việt
Cộng".(
2
) Mục đích là quấy rối và bắt giữ các thành viên của chính phủ
ngầm của Việt Cộng và phá huỷ mạng lưới hậu cần ở vùng ven biển thuộc
vùng I - NAD triển khai những hoạt động tương tự ở vùng II (vùng Tây
nguyên ở Nam Việt Nam) năm 1968. Trong năm đó, 25 điệp vụ được thực
hiện thành công ở vùng I và 22 ở vùng II. Kết quả ở vùng I là "6 V.C. bị
giết, 6 bị bắt làm tù binh, thu giữ số lượng lớn tài liệu, tiến hành 11 vụ phục