trường Westpoint. Đầu những năm 1960, Westmoreland được cử đến chỉ
huy lực lượng phản ứng nhanh của lục quân, sư đoàn không vận số 18.
Trung đoàn không vận số 101 và sư đoàn không vận 18 là sự biểu hiện cụ
thể của lý luận của lục quân về hoả lực và hoạt động trên cơ sở lực lượng
thông thường áp đảo. Những tiến bộ công nghệ chỉ củng cố và làm sâu sắc
hơn quan điểm này của giới lục quân chính thống.
Năm 1964, khi Westmoreland với tư cách là tư lệnh của MACV bắt đầu
vạch ra phương cách tiến hành chiến tranh Việt Nam, không lấy gì ngạc
nhiên khi hoả lực và sự áp đảo là hai yếu tố cốt lõi trong chiến lược của
ông. Westmoreland chỉ thị cho quân đội tiến hành hoạt động tìm và diệt ở
khắp miền Nam nhằm tiêu diệt, làm bị thương hoặc bắt giữ một số lượng
quân đội đối phương lớn hơn là số được thay thế.
SOG nằm ở vị trí nào trong kế hoạch chiến tranh của Westmoreland? Ông
không tin SOG có thể làm được gì nhiều và vì vậy không mấy để ý đến
SOG. Ông còn khẳng định lại quan điểm của mình khi được phỏng vấn cho
cuốn sách này. Westmoreland nhớ lại là ông “biết khá rõ” về việc
Washington đòi hỏi đẩy mạnh leo thang hoạt động ngầm chống miền Bắc
Việt Nam. Nhưng ông nhận xét tại thời điểm đó làm như vậy không mang
lại mấy lợi ích: “hoạt động ngầm không có mấy tác động sâu sắc. Nó là loại
hành động cùng lắm cũng chỉ tạo ra sự khó chịu trong tư tưởng của đối
phương. Nhưng nó quá nhỏ và trọng tâm lại quá hẹp. Những người tham
gia công việc này cứ nghĩ là họ quan trọng và họ có thể chiến thắng trong
chiến tranh. Họ hoàn toàn phóng đại về tầm quan trọng của họ”(
).
Westmoreland không chỉ phê phán những người vạch kế hoạch và thực hiện
hoạt động ngầm chống lại Hà Nội. Ông cho rằng: “những người xuất sắc và
thông minh nhất” ở Nhà Trắng đã đặt niềm tin quá lớn và không đúng chỗ
vào những gì mà hoạt động ngầm có thể mang lại. Cụ thể, Westmoreland
nêu đích danh McNamara. “Tôi nghĩ điều đó không còn nghi ngờ gì nữa.
Tôi cho là ông ta đã đánh giá quá mức (về hoạt động ngầm)”. Các “giáo sư