ra. Trách nhiệm về các hoạt động đó cần được chuyển từ CIA cho
MACV”(
).
Như vậy, các khuyến nghị chính sách mà Johnson nhận được từ cuối tháng
11 và đầu tháng 12 đều kêu gọi gia tăng chiến tranh bí mật. Những hạt
giống mà Kenedy gieo từ năm 1961 đã nảy mầm, thể hiện ở việc Johnson
nghiêng theo chiều hướng gia tăng sức ép đối với Hà Nội qua việc phê
duyệt chỉ thị 273. Tuy nhiên, vào tháng 12, Johnson bắt đầu dao động. Ông
nhận ra là việc đó có thể đi ngược lại chương trình nghị sự trong nước và
nguyện vọng của tổng thống. McNamara cho là “sự dao động này phản ánh
tính thận trọng chung về Việt Nam của Johnson. Johnson muốn tránh những
điệp vụ quá mạo hiểm” và, khi tổng thống tập trung vào 34A, “thận trọng
trở thành tư tưởng chủ đạo. Tránh rủi ro cao”(
).
Ngày 21-12, McNamara và Giám đốc CIA John McCone gặp Johnson để
xem xét 34A. Đó là cuộc họp cực kỳ quan trọng, trong đó sự bảo thủ và rụt
rè chính trị của tổng thống về hoạt động ngầm bộc lộ rõ. Trong cuộc họp,
tổng thống quyết định chỉ chọn những hoạt động “hứa hẹn mang lại kết quả
lớn nhất với ít rủi ro nhất” (
)từ 34A. Sau đó Johnson thành lập Uỷ ban
Krulak để đánh giá lại 34A theo quan điểm này của tổng thống.
Uỷ ban Krulak làm đúng như vậy. Uỷ ban đã xem xét “toàn bộ các hoạt
động có thể thực hiện chống Bắc Việt Nam... với tư tưởng chỉ đạo là đạt kết
quả lớn nhất và rủi ro thấp nhất”. Rủi ro được đánh giá trên hai khía cạnh.
Thứ nhất, uỷ ban xem xét mức độ “Bắc Việt Nam trả đũa thông qua việc
đẩy mạnh hoạt động ở Nam Việt Nam”. Vì chế độ Sài Gòn đang rệu rã, việc
đó có thể làm cho chế độ sụp đổ “trừ khi Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp” . Đó
chính là khả năng mà Johnson không thể chấp nhận trong năm bầu cử 1964.
Uỷ ban Krulak ý thức rõ điều này. Hai là, Uỷ ban đánh giá mức độ “phản
ứng quốc tế” mà việc thực hiện các hoạt động trong 34A có thể gây ra(
).
Điều này cũng nên tránh trong cuộc tranh cử tổng thống sắp tới.