Mặc dù ý tưởng rất có ý nghĩa, Kenedy gặp phải một trở lực lớn - chính bộ
máy hành chính của ông - trong việc hiện thực hoá luận điểm của tổng
thống. Phải cần đến ba năm bộ máy đó mới đưa ra được kế hoạch hoạt động
ngầm phù hợp - Kế hoạch 34A. Cuối cùng vào cuối năm 1963, chiến tranh
bí mật ở Bắc Việt Nam bắt đầu được mở rộng và Hà Nội bắt đầu cảm nhận
được độ nóng. Giữa bối cảnh này, Kenedy bị ám sát.
Sau đó Johnson lên làm tổng thống và Việt Nam là vấn đề số một trong
chương trình nghị sự. Xu hướng ban đầu của ông là ngả theo việc sử dụng
sức mạnh với Hà Nội. Tuy nhiên gần như ngay lập tức, thực tế chính trị nội
bộ bắt đầu chiếm chỗ ưu tiên và Johnson dao động. Ông không chỉ là tổng
thống mà còn là ứng cử viên tổng thống của đảng Dân chủ trong cuộc bầu
cử 1964.
Điều này làm phức tạp thêm tình hình. Nếu chiến tranh trở nên quá nổi
trước mắt dân Mỹ, nó có thể trở thành món nợ chính trị nội bộ của Johnson.
Thái độ tự tin nhường chỗ cho sự thận trọng. Quyết định này gây ra tác
động ngắn hạn và dài hạn đối với SOG. Trong năm 1964, điều đó có nghĩa
SOG không có nhiều việc để làm vì Nhà Trắng cắt giảm 34A. Sự kém thành
công của SOG còn gây ra tác động ngoài mong muốn đối với các nhà vạch
chính sách, mà quan trọng nhất là McNamara. Nếu SOG không mang lại
kết quả, chính quyền tìm cách thức khác để gây sức ép đối với Hà Nội. Đến
lượt nó, điều này lại có tác động lâu dài vì SOG không còn người đỡ đầu ở
cấp cao nhất tại Washington. Khi tìm cách mở rộng hoạt động để chống Bắc
Việt Nam, SOG thấy mình ở thế yếu và bị loại khỏi vòng chiến đấu trong
các cuộc tranh cãi liên ngành.
Tuy nhiên, bất chấp bốn năm rụt rè của chính quyền Johnson, các hạn chế
do Washington áp đặt, các thất bại của SOG,_và các biện pháp đối phó của
đối phương, năm 1968 Hà Nội bắt đầu có biểu hiện lo lắng. Bắc Việt Nam
phát động chiến lược phản gián lớn để đối phó. Báo chí, đài phát thanh, và
các biện pháp an ninh của Bắc Việt Nam trong năm 1968 cho thấy có sự gia