thúc và tất cả những ngày sau nữa. Jeremy những muốn nói chuyện với ông
thường xuyên hơn, muốn được ngồi trên gối ông, nhưng đó đâu phải là cử
chỉ mà bố hắn khuyến khích. Ở nhà mọi người ít khi nói chuyện với nhau,
mà chỉ thích những trao đổi giản đơn qua ánh mắt và nụ cười. Trong sâu
thẳm sự im lặng đó, Jeremy đôi khi nghĩ mình nghe được hơi thở của em
gái hắn. Dường như con bé ở đó, núp trong bóng tối cuộc sống của họ. Con
bé tên là Anna và kém hắn một tuổi. Con bé mới được bốn tháng khi mẹ
hắn phát hiện con bé nắm bất động trên giường, còn Jeremy ở ngay bên
cạnh đang khóc. hắn phát hiện con bé nắm bất động trên giường, còn
Jeremy ở ngay bên cạnh đang khóc. Bà chỉ để hai đứa lại có mấy phút để đi
mua vài thứ. “Đột tử ở trẻ sơ sinh”, ông bác sĩ kết luận bằng cách đưa ra
một tên gọi cho một bí mật để khỏi phải giải thích. Sau đó, Jeremy chỉ nói
với mẹ có một lần về chuyện này, khi hắn lên tám. Khi đó, cô giáo chủ
nhiệm vì quá lo lắng trước thái độ của thằng bé đã khuyên bà Delègue đưa
con trai đi gặp bác sĩ tâm lý. Sau lần đi gặp bác sĩ ấy, bà mới kể cho hắn
nghe cảnh tượng đã qua, nước mắt chan chứa. “Con vẫn nhớ chuyện đó mẹ
ạ”, hắn thì thầm. Mẹ hắn sững sờ, bảo hắn nói cụ thể hơn, thì hắn không
biết phải trả lời ra sao. Hắn biết hết, thế thôi.
– Không phải lỗi tại con. Con chỉ có mặt ở đó, con chỉ nhìn thấy chuyện
gì xảy ra, thế thôi, bà vội vàng giải thích.
Tuy nhiên đôi khi hắn có cảm tưởng như khám phá được trong sự âu
yếm của mẹ hắn và trong cái câm lặng của bố hắn dư âm của một lời trách
móc. Nhưng ngay lập tức tình yêu họ dành cho hắn giúp hắn quên đi những
sợ hãi đó. Và rốt cuộc, sự vắng mặt ấy, nỗi đau kìm nén ấy, những giọt nước
mắt của mẹ hắn mỗi năm vào cùng một ngày đã tạo ra xi măng gắn kết tình
yêu của họ.
Vậy thì, làm sao giờ đây hắn lại có thể từ chối không nói chuyện với họ?
Ý nghĩ ấy khiến hắn phẫn nộ.
– Anh muốn gặp bố mẹ!