phải chịu trách nhiệm, cũng như người lãnh đạo hay chủ tịch hội đồng lớn
hơn cũng chịu trách nhiệm như vậy.
Nhà nước nhân dân về cơ bản không chịu đựng việc mà theo yêu cầu, ví dụ
về loại hình kinh tế chẳng hạn, người ta cứ đi hỏi lời khuyên và đánh giá
của những người mà không được đào tạo và hoạt động trong lĩnh vực đó, họ
không thể hiểu về việc đó được. Nhà nước vì thế đã phân chia các đại diện
của nó ngay từ đâu ra các ban chuyên trách chính trị và chuyên trách ngành
nghề.
Để bảo đảm cho cả hai cùng hoạt động có hiệu quả thì đứng trên hai bên
luôn có một thượng nghị viện đặc biệt được chọn ra.
Không có trong ủy ban hay nghị viện nào có sự bỏ phiếu cả. Họ là những
cơ sở làm việc chứ không phải máy bỏ phiếu. Từng thành viên đều có cái
giọng tư vấn nhưng không quyết định gì cả. Việc quyết định chỉ có người
lãnh đạo chịu trách nhiệm phải làm.
Nguyên lý về bắt buộc phải có mối liên hệ giữa việc chịu trách nhiệm tuyệt
đối với uy tín tuyệt đối dần dần phát triển ra việc lựa chọn lãnh đạo, điều
này trong thời đại của chủ nghĩa nghị viện vô trách nhiệm ngày nay chẳng
thể nghĩ tới được.
Như vậy Hiến pháp nhà nước của dân tộc được thống nhất với từng đạo luật
mà nó phải cám ơn vì qui mô của các lĩnh vực văn hóa hay kinh tế nó đã có
luật đó.
Tôi xin các vị cũng đừng quên về tính khả thi của những nhận thức này,
rằng nguyên tắc nghị viện của việc qui định theo đa số một cách dân chủ
không phải do nhân loại đã có từ lâu mà ngược lại chỉ tìm thấy trong các
thời kỳ rất ngắn của lịch sử, lại luôn là những khoảng thời gian mà các dân
tộc và nhà nước bị suy thoái đi.
Tất nhiên người ta không nên tin rằng người ta có thể dùng các biện pháp
chỉ thuần lý thuyết từ trên xuống dưới để có thể tạo ra một sự biến đổi như
vậy được, vì về logic việc này không được phép dừng lại ở phần hiến pháp,
mà phải tìm cách lọt qua cả việc lập pháp còn lại, phải, vào tất cả cuộc sống
công dân. Cuộc cách mạng biến đổi như vậy chỉ có thể và sẽ xảy ra nhờ một