hồ lớn Vettern [4] mà băng đã tan và đang lóng lánh ánh dương quang,
tưởng chừng không phải chứa nước, mà chứa đầy ánh sáng xanh lơ.
Hồ Vettern làm đẹp hẳn tất cả mạn bắc; có thể nói rằng một ánh hồi
quang màu thanh thiên đã hiện lên từ đó, và tỏa ra khắp mặt đất. Những
khóm cây, những ngọn đồi, những mái nhà, những mũi tên, thành phố
Jưnkưping,[5] tất cả đều đắm mình trong một ánh quang minh biêng biếc
dịu dàng, như vuốt ve mắt người ngắm cảnh.
Ngày hôm sau, tiếp tục cuộc lữ hành, đàn ngỗng bay ngược thung lũng
xanh biếc kia. Khí sắc vui vẻ hết sức, chúng kêu không ngớt, đến nỗi chẳng
một ai có đôi tai mà có thể tự miễn không nghe chúng được.
Với lại, trong miền này, hôm nay là ngày xuân đẹp đầu tiên. Cho đến lúc
ấy, mùa xuân đã làm công việc của mình nhờ những cơn mưa và những trận
bão. Phải buổi đẹp trời như thế này thì nỗi nhớ nhung mùa hè nắng ấm và
rừng xanh mới xâm chiếm lòng người, khiến họ thấy công việc hàng ngày
thật là nặng nhọc. Khi các ngỗng trời bay qua, tự do và nhẹ nhàng, nhanh
nhẹn trên kia, bên trên mặt đất, thì chẳng một ai là không bỏ dở công việc
mà nhìn dõi theo.
Những kẻ đầu tiên ngày hôm đó trông thấy ngỗng là những thợ mỏ ở núi
Taberg, đang đào quặng ở sát mặt đất. Nghe ngỗng kêu, họ ngừng đào và
một người trong bọn họ kêu lên:
"Đi đâu đấy? Đi đâu đấy?"
Đàn ngỗng nghe không hiểu mấy lời ấy, nhưng chú bé nghiêng mình
xuống và kêu: "Đi đến nơi không có cuốc chim, cũng không có búa tạ."
Nghe thấy thế, những người thợ mỏ tưởng rằng chính nỗi nhớ nhung của
họ đã làm cho họ nghe tiếng những con ngỗng mà như một tiếng người.
- Cho chúng tôi đi với! Cho chúng tôi đi với! Họ gọi.