CHƯƠNG
5
C
ó một thứ mùi rất quen thuộc trong những tòa nhà chung cư cũ. Khi còn
là một đứa trẻ, tôi còn nhớ sự phản ứng của những vị khách ghé thăm căn
hộ của mẹ trước thứ mùi ấy, nó giống như thứ mùi của sự mục ruỗng và
nhơ nhớp “chộp” lấy gương mặt của họ, khiến họ phải lấy tay bịt mũi, phải
chớp mắt lia lịa, và phải đưa tay lên cằm mà kiềm chế. Khi tôi còn rất nhỏ,
thứ mùi ẩm mốc đó là những gì tôi cho rằng ngôi nhà nào cũng có. Không
phải mùi của nến thơm hay mùi của bánh mì nướng, mà là mùi của những
đôi giày thể thao, mùi của những chén bát chưa rửa. Cho đến khi học trung
học, tôi thấy mình phải quay mặt đi vì xấu hổ bất cứ khi nào có người ghé
thăm chúng tôi. Tôi đã thề rằng khi tôi lớn lên và có căn hộ riêng của mình,
tôi sẽ biến thứ mùi đó trở thành thứ mùi của đồ gỗ trong nhà, chứ không
phải thứ mùi buồn nôn này.
Nhưng hóa ra, điều đó thật chẳng hề dễ dàng gì đối với túi tiền của tôi.
Tòa nhà ba tầng tôi đang sống có một căn hầm chứa rượu cổ, nơi hấp thụ
toàn bộ sự ẩm ướt và nhớp nháp của mặt sàn gỗ, bổ sung thêm cho toàn bộ
cấu trúc ngôi nhà là một mùi hăng nồng được sinh ra từ bụi ẩm hòa lẫn với
mùi đặc trưng của gỗ mục. Thứ mùi đậm đặc nhất xộc thẳng vào mũi ấy
thường nằm ngay sau cánh cửa ra vào, nơi những chiếc hộp thư của chúng
tôi được bắt vít vào tường. Bên trên, phía bên phải chiếu nghỉ là những bậc
cầu thang dẫn tới căn hộ của tôi, phía bên trái là một cánh cửa dẫn đến các
căn hộ của tầng chính, nơi gia đình người Hy Lạp, Kostas đang sống. Thi
thoảng, mùi thơm của các gia vị ẩm thực phong phú lọt qua những cánh
cửa đó, hòa trộn với thứ mùi ghê sợ của căn hầm cũ sẽ làm choáng ngợp
mọi giác quan của bất cứ ai.
Tôi đã quán triệt rằng căn hộ của tôi sẽ phải được giữ thật sạch sẽ, được
hút bụi hàng tuần, rửa bát sau mỗi bữa ăn; tôi thậm chí còn luôn muốn phủi